Bài viết mới

Phần mở đầu



Phần mở đầu
Nhà có gia phả như nước có quốc sử. Sử chép việc chung trong thiên hạ; Phả chép việc riêng trong gia đình dòng họ. Gia phả, tộc phả đều là báu vật; phải giữ gìn, yêu quí như ‘Ngọc Bảo”. Mong các thế hệ viết bổ sung tiếp các đời vào gia phả, tộc phả để phả ngày càng dầy, dòng huyết thống của tổ tiên sinh thành ngày càng đông.
“Con cháu đông nhiều bề tiến bộ,
Tổ tiên muôn thuở hiển vinh”
Phấn đấu vươn lên đời sau cao hơn đời trước, thực hiện kinh thư của các bậc tiền nhân để lại: Lớp trước mở mang lưu truyền vĩnh viễn. Đời sau nối tiếp phúc cao thừa kế huy hoàng”
*    *
*
Gia phả Họ Bạch Lạc Tràng trước đây, nay là Tộc phả Họ Bạch Lạc Tràng.
Tộc phả Họ Bạch Lạc Tràng gồm 3 nội dung
1. Phần phả Ký: Là những lời nói đầu của những bậc tiền nhân viết phả:
Cụ Hoàng Giáp Bạch Đông Ôn viết “Thiên tiểu sử gia phả Họ Bạch  (bằng chữ Hán) gửi tới các phái họ Bạch.
Cụ Bạch Quốc Trung đời thứ 10 chi Giáp, cụ Bạch Văn Trình đời thứ 10 chi ất viết bài chúc thư. Cụ Bạch Ngọc Kinh đời thứ 10 chi ất viết bài Phả ký.
2. Phần phả hệ:
Cụ Bạch Trung Khắc lập gia phả họ Bạch Lạc Tràng (Từ đời Thủy Tổ Bạch Đình Luận đến đời thứ 6 bằng chữ Hán)
Cụ Trung, Cụ Trình dịch bản thiên tiểu sử gia phả Họ Bạch của cụ Hoàng Giáp Bạch Đông Ôn và gia phả họ Bạch Lạc Tràng của cụ Bạch Trung Khắc từ chữ Hán ra chữ Quốc ngữ và viết thêm các đời vào gia phả (từ đời thứ 7 đến đời 12).
Cụ Kinh viết bổ sung các đời vào Tộc phả và viết tiếp nối từ đời 13,14,15.
3. Phần phả đồ là phần cụ thể hóa phả hệ (theo suất đinh) bằng sơ đồ (đặt tại nhà thờ Họ).

Phần I: Phả ký



Phần I: Phả ký
Tộc phả họ Bạch Lạc Tràng được các bậc tiền nhân ghi lại rất rõ “cội nguồn tổ tiên”. Tổ Bạch Quốc Hiên Tiến sỹ đời nhà Trần dời từ Vôi Giếng, Bắc Giang về lập nghiệp ở Phù Sơn, Phù Lưu (nay là làng Lưu Giáo, xã Tượng Lĩnh, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam).
Tổ tiên Họ Bạch Lạc Tràng là đức Thủy tổ Bạch Đình Luận, hậu duệ tôn của Tổ Bạch Quốc Hiên, dời từ Tượng Lĩnh về lập nghiệp ở Lạc Tràng; sinh thành ra dòng dõi Họ Bạch Lạc Tràng (nay là phường Quang Trung, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam)
          Để tưởng nhớ công ơn sinh thành của tổ tiên; năm 1920 cụ Bạch Văn Lam đời thứ 10 chi Giáp con trai thứ 2 cụ Bạch Văn Tứ ở Ngành trưởng, phái 2 kế trưởng chi Giáp (kế trưởng Họ Bạch Lạc Tràng) đã phát tâm công đức xây dựng nhà thờ họ Bạch Lạc Tràng trên đất nhà mình ở phía Bắc cầu Phủ Lý (nay là cửa hàng xăng dầu thuộc tổ 7 phường Quang Trung, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam. Nhà thờ làm 5 gian bằng gỗ lim, lợp mái ngói ta, thờ đức Thủy Tổ Bạch Đình Luận đến tổ tiên 3 chi, 10 phái. Trong nhà thờ có đôi câu đối của cụ Bạch Trung Khắc (người lập gia phả Họ Bạch Lạc Tràng ghi lại)
Lạc địa phương danh Hoàng Giáp Hậu,
Phù Sơn cố lý Bạch Gia Tiên.
Năm 1950 Thực dân Pháp chiếm đóng Phủ Lý, san bằng khu dân cư và nhà thờ Họ Bạch, lập đồn bốt chống phá Cách mạng Việt Nam.
Chiến tranh chống Pháp, chống Mỹ kéo dài tàn khốc! Nhiều người trong họ phải ly tán xa quê hương. Trong mọi hoàn cảnh khó khăn, Họ Bạch Lạc Tràng vẫn nhờ vào lòng thành một số gia đình trong họ để duy trì tổ chức giỗ Tổ hàng năm; để cả họ biểu lộ lòng thành ơn sâu nghĩa nặng công sinh thành của tổ tiên. Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng. Ngày 30 tháng 4 năm 1975 giải phóng Miền Nam; đất nước hòa bình thống nhất; Bắc Nam xum họp một nhà. Tự do tín ngưỡng được khôi phục và phát triển. Phong trào tìm về cội nguồn họ Bạch Lạc Tràng ngày càng đông nhưng nhà thờ họ không còn nữa! Mọi người họ Bạch Lạc Tràng khát khao và quyết tâm xây dựng lại nhà thờ Họ. Cuối năm 1996 (vào ngày giỗ Tổ Bà 25 tháng 10) trong họ đã cử ra 31 vị vào Ban chấp hành hội đồng Gia tộc.
Cụ Bạch Sơn Trà đời thứ 9 ở ngành 2, phái 4 chi Giáp làm Chủ tịch.
Cụ Vũ Thị Chén (vợ cụ Bạch Văn Chúc đời thứ 9 ở ngành 4 phái 2 chi ất làm phó chủ tịch.
Cụ Bạch Ngọc Kinh đời thứ 10 thuộc ngành trưởng phái 2 chi ất làm trưởng ban.
Tháng 4 năm 1998 Hội đồng Gia tộc Họ Bạch Lạc Tràng đã gửi thông báo xây dựng nhà thờ Họ tới 3 chi, 10 phái, 23 ngành trong nước và nước ngoài. Tất cả mọi người mang dòng máu tổ tiên Họ Bạch Lạc Tràng; ở quê hương, trong nước và nước ngoài đều nhiệt tình hưởng ứng về cội nguồn và cung cấp nhiều tư liệu quí để bổ sung vào gia phả, tộc phả.
Nhờ vào lòng thành, phát tâm công đức của cả họ: trai, gái, dâu, rể, các cháu nội ngoại của Tổ, các phái Họ Bạch, nhất là những cá nhân, gia đình tiêu biểu (danh sách công đức vào sổ vàng lưu tại nhà thờ họ) cùng với Ban chấp hành hội đồng gia tộc đã tổ chức xây dựng thành công nhà thờ Họ Bạch Lạc Tràng năm 1999 và xây dựng mọi công việc trong họ ổn định đi vào nề nếp.
Ngày giỗ Tổ Bà 25 tháng 10 năm (2007) ban chấp hành hội đồng gia tộc đã hoàn thành nhiệm vụ được tôn vinh 31 vị trên danh sách bia (để tại nhà thờ Họ)
Ban đại diện Họ Bạch Lạc Tràng do cụ Bạch Văn Phúc đời thứ 10 (là con trưởng cụ Bạch Văn Chúc), thuộc ngành trưởng, ngành 4 phái 2 chi ất họ Bạch Lạc Tràng làm trưởng Ban; đã kế thừa và phát huy truyền thống “Uống nước nhớ nguồn” của dòng họ. Đặc biệt đã tổ chức long trọng ngày giỗ Tổ Ông 15 tháng 2 năm Tân Mão (2011) đã được phát lên mạng, truyền hình ảnh những hoạt động của Họ ở cội nguồn tới tất cả chúng ta, những người còn đang sống, mang dòng huyết thống của tổ tiên họ Bạch Lạc Tràng, ở quê hương, trong nước và nước ngoài biết; thấy rõ sự phát triển của dòng họ Bạch Lạc Tràng và hứa hẹn gặp mặt nhau tại cội nguồn quê cha đất tổ; Để cùng nhau bày tỏ lòng thành nghĩa công sinh thành của tổ tiên.
Nhà thờ họ Bạch Lạc Tràng năm 1999 là nhà thờ Họ (của 3 chi, 10 phái, 23 ngành); được xây dựng trên đất của dòng Họ Bạch Lạc Tràng, xã Lam Hạ, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam (nay là tổ 8, phường Quang Trung, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam). Kiến trúc Sư cụ Bạch Sơn Lương ủy viên Ban chấp hành Hội đồng gia tộc đời thứ 10 ở ngành 2, phái 4 chi Giáp Họ Bạch Lạc Tràng phụ trách thiết kế.
Kỹ sư xây dựng cụ Bạch Văn Phúc ủy viên Ban chấp hành Hội đồng gia tộc đời thứ 10 ở ngành trưởng, ngành 4 phái 2 chi ất Họ Bạch Lạc Tràng điều hành kỹ thuật xây dựng.
Người thay mặt kế trưởng Họ Bạch Lạc Tràng là gia đình cụ Bạch Văn Khiếu đời thứ 11 (con trai thứ 3 cụ Bạch Văn Như thuộc hàng trưởng, nhánh trưởng, ngành trưởng phái 2 chi Giáp. Cụ Khiếu qua đời, vợ cụ là cụ Phạm Thị Cơ và con trai cụ ở quê hương có ông Bạch Văn Hiếu, Bạch Trọng Huấn đời thứ 12 kế thừa và chịu trách nhiệm quản lý trông nom đèn nhang tại từ đường từ năm 1999.
Nhà thờ Họ Bạch, khởi công làm lễ động thổ ngày 6 tháng 11 năm Mậu Dần (24/12/1998). Hoàn thành ngày 25 tháng 10 năm Kỷ Mão (2/12/1999).
Lễ Yên Vị các linh vị đêm ngày 2 và sáng 3 tháng 5 năm Canh Thìn (3/7/2000)
Nhà thờ Họ Bạch Lạc Tràng hoàn thành năm 1999, thờ đức Thủy Tổ Bạch Đình Luận, tổ tiên độc đinh; đến tổ 3 chi, 10 phái, 23 ngành. Trong hậu cung thờ 40 thần vị.
Thần vị đời thứ nhất: Bài vị viết chữ nho: Thánh tổ Bạch Đình Luận .
Khấn: Hiển Thủy Tổ khảo Lê Triều Cống cử sung quốc Tử Giám sinh Bạch Qúy Công tự Đình Luận thụy viết chất hậu phu quân
Thần vị đời thứ 2: Bài vị viết: Thế tổ Bạch Tuấn Mậu .
Khấn: Hiển thế Tổ khảo tiền nhị khoa tam trường Bạch Quý Công tự Tuấn Mậu thụy viết chất hậu phu quân
Thần vị đời thứ 3: Bài vị viết: Thành tổ Bạch Công Tuyển .
Khấn: Hiển thành Tổ khảo tiền trúng tam trường Bạch Nguyên Lang tự Công Tuyển thụy viết chất hậu phu quân
Thần vị đời thứ 4: Bài vị viết: Thiệu tổ Bạch Quốc Điển .
Khấn: Hiển thiệu Tổ khảo tiền chấn cai Bạch Quý Công tự Quốc Điển húy Bá Điểm thụy viết chất hậu phu quân
Thần vị đời thứ 5:
Chi Giáp Bạch Thụ Thái
Chi ất Bạch Đào Cận
Chi Bính Bạch Mai Nham
Thần vị đời thứ 6: Thờ tổ 10 phái của 3 chi
          Chi Giáp thờ tổ 4 phái
Phái trưởng: Bạch Xuân Hài
Phái 2: Bạch Xuân Thành
Phái 3: Bạch Quốc Cơ
Phái 4: Bạch Quốc Bính
          Chi ất thờ tổ 3 phái
Phái trưởng: Bạch Quốc Siêu
Phái 2: Bạch Trọng Thúc
Phái 3: Bạch Văn Hoạn
Chi Bính thờ tổ 3 phái
Phái trưởng: Bạch Xuân Cù
Phái 2: Bạch Xuân Huyên
Phái 3: Bạch Xuân Nhiệm (tức nghiện)
Đời thứ 7: Cả Họ Thờ 23 tổ ngành
Chi Giáp thờ 10 tổ ngành
1.Ngành trưởng, phái 2: Bạch Hữu Du (tức cụ Bạch Xuân Tính)
2.Ngành 2, phái 2:         Bạch Tự Cường
3.Ngành 3 phái 2:          Bạch Xuân Quyền
***
4.Ngành trưởng, phái 3: Bạch Quốc Bồi
5.Ngành 2, phái 3:         Bạch Quốc Triệu
6.Ngành 3, phái 3:         Bạch Trọng Đạo
7.Ngành 4, phái 3:         Bạch Chính Đức
***
8.Ngành trưởng, phái 4: Bạch Đông Ôn
9.Ngành 2, phái 4:         Bạch Doãn Cung
10.Ngành 3, phái 4:       Bạch Xuân Hảo
Chi ất thờ 9 tổ ngành
1.Ngành trưởng, phái trưởng: Bạch Quốc Huynh
2.Ngành 2, phái trưởng:         Bạch Quốc Siêu
***
3.Ngành trưởng, phái 2:         Bạch Quang Biểu
4.Ngành 2, phái 2:                 Bạch Văn Kiểu
5.Ngành 3, phái 2:                 Bạch Quang Tố
6.Ngành 4, phái 2:                 Bạch Văn Tộ
7.Ngành 5, phái 2:                 Bạch Văn Độ
***
8.Ngành trưởng, phái 3:        Bạch Văn Đích
9.Ngành 2, phái 3:                Bạch Văn Cừ
Chi Bính  thờ 4 tổ ngành
1.Ngành trưởng, phái trưởng: Bạch Xuân Thự
2.Ngành 2, phái trưởng:         Bạch Ngọc Trân
3.Ngành 3, phái trưởng:         Bạch Ngọc Bảo
***
4.Ngành trưởng, phái 2:         Bạch Văn Đĩnh
Ban thờ bên phải nhà đại bái: Thờ các vong cô di tỷ muội nương tựa bóng Tổ che chở
Ban thờ bên trái nhà đại bái thờ danh bia tôn vinh các vị có công với nước với dòng họ
Các hoành phi, câu đối
          Trong Hậu cung:
Hoành phi 4 chữ nho: Hách Trạng Linh Thanh 
Nghĩa là:     Nổi tiếng hiển hách linh thiêng.
Câu đối chữ nho:    Bách thế bản chi thừa cựu ấm
Thiên Thu hương hỏa tráng tân cơ
                   Nghĩa là:     Phúc xưa dầy lưu gốc cành muôn thuở
                                Nền mới vững để hương khói ngàn thu
Trong nhà đại bái:
Hoành phi 4 chữ nho: Truy niệm tiền ân
Nghĩa là:                        Tưởng nhớ ơn xưa
Câu đối chữ nho:            Bản căn sắc thái ư hoa diệp
                                                Tổ Khảo tinh thần tại Tử Tôn
Nghĩa là:                        Sắc thái cội cành ở lá hoa
Tinh thần tiên tổ trong con cháu
Ngoài hiên
Cuốn thư đắp trên trần hiên đề chữ quốc ngữ: “Lưu phúc lưu ân”
Nghĩa là:                        Lưu giữ mãi ơn đức tổ tiên
Câu đối ở giữa 2 cột hiên khắc trên đá sẻ bằng chữ quốc ngữ:
Cây chung ngàn nhánh sinh từ gốc
Nước chảy muôn dòng phát tại nguồn
Chữ nho là:                    Mộc suất thiên chi do hữu bản,
Thủy lưu vạn phái tổ tòng nguyên
Câu đối 2 bên cột hiên khắc trên đá sẻ bằng chữ quốc ngữ:
Lớp trước mở mang đức sáng lưu truyền vĩnh viễn
Đời sau tiếp nối phúc cao thừa kế huy hoàng
Chữ nho là:          Hữu khai tất tiên minh đức giả viễn hỹ
Khắc xương quyết hậu kế tự kỳ hoàng phi
Cổng nhà thờ: Ghi chữ quốc ngữ (trong và ngoài cổng)
Mặt trước cổng ghi chữ:        Họ Bạch Lạc Tràng
Câu đối:         Tổ tiên tích đức ngàn năm thịnh
Con cháu nhờ ơn vạn đại vinh
Chữ nho:              Đức thừa tiên tổ thiên niên vĩnh
Phúc ấm nhi tôn bách thế vinh
Mặt trong cổng ghi: Khởi công ngày 6 tháng 11 Mậu Dần (24/12/1998)
  Hoàn thành ngày 25 tháng 10 năm Kỷ Mão (2/12/1999)
          Câu đối ghi chữ quốc ngữ:      Nhờ tiên tổ anh linh phù hộ
Dìu cháu con tiến bộ trưởng thành
Chữ nho là:              Dục cấu bảo an vu hậu duệ,
Tu bằng cảm cách ưu tiên linh

Năm Tân Mão (2011)
Thay mặt BCH hội đồng gia tộc
Trưởng ban: Bạch Ngọc Kinh
 Chúc Thư
Tôi là Bạch Văn Trình sinh năm 1893 là trưởng tôn phái 2 kế trưởng chi ất cùng với cụ Bạch Quốc Trung sinh năm 1901 ở nhánh 2 ngành 3 phái 2 kế trưởng chi Giáp; Thiết nghĩ nay được nhờ ơn Hồ Chủ Tịch, Đảng và Chímh Phủ lãnh đạo toàn dân kháng chiến đã được độc lập, dân chủ thực sự ban hành chính sách tự do tín ngưỡng. Chúng tôi lớp người cũ hãy còn phong kiến sực nhớ đến công ơn tổ tiên, đem thiên tiểu sử họ Bạch: Cụ Hoàng Giáp Bạch Đông Ôn thời pháp thuộc đời  Vua Minh Mạng đi thanh tra Bắc Kỳ cụ biên được của người trong họ cụ Cẩm Khê Hầu Bạch Phấn ưng ở thôn Nguyên xá tức Vôi Giếng thuộc tỉnh Bắc Giang, lưu truyền cho ông Chánh tổng Bạch Trung Khắc giữ mang về. Cụ ghi nối Gia phả từ Đức Thủy tổ Bạch Đình Luận đến đời thứ 6 bằng chữ Hán, chúng tôi phiên dịch ra chữ quốc ngữ và sưu tầm tài liệu các ngành các phái trong 3 chi, ghi chép thêm từ đời thứ 7 đến đời thứ 12, thành bản gia phả họ Bạch để lưu truyền cho cháu chắt sau am hiểu nguồn gốc, dòng dõi  như thế thì đủ biết có trước mới có sau, có gốc mới có ngọn, để thực hiện câu: “uống nước nhớ đến nguồn, ăn quả nhớ người trồng cây”, làm người phải có luân thường, đã biết luân thường phải nhớ đến công sinh thành dưỡng dục, đã sinh nòi giống, nỡ quyên tổ tiên! Chẳng biết họ mạc gần xa thế nào; Bởi thế ngày nay nghĩ đến lý lịch hành trạng tiền nhân xây đắp bao đời ngày càng đông đúc.
Ngược lại tổ tiên từ trước đến nay đều sống trong vòng nội thuộc, rồi đến đế quốc phong kiến đã từng hấp thụ nhiều chế độ thối nát, cũng có những phần tử ra làm nô lệ cho địch, trái lại đa số lại bị địch áp bức bóc lột, song cũng có những bậc tiên tiến giác ngộ Cách mạng chống lại địch như cụ Bạch Đông Ôn đỗ Hoàng Giáp đời Minh Mạng, đời Tự Đức Pháp chiếm nước cụ không chịu làm quan nô lệ bỏ về dạy học, cụ Bạch Chính Đức theo cụ Đinh Công Tráng đánh trận Ba Đình bị hy sinh. Thời Thành Thái cụ Bạch Xuân Thận là danh tướng cho cụ Hoàng Hoa Thám chống địch ở Giã Nam, cụ Bạch Đôn thì tham gia hội Đông Kinh Nghĩa Thục. Thời Khải Định cụ Bạch Sơn Cương thành lập chi bộ địa phương bị địch bắt, cụ hy sinh; cụ Bạch Ngọc Lan Tuy làm Chánh tổng  nhưng vẫn liên hệ với cán bộ Cách mạng đồng thời lãnh đạo con cháu cắm cờ dải truyền đơn Núi Non và núi Chanh đó cũng là các vị anh dũng trong họ tuy không được nêu tên quốc sử, nhưng cũng làm tấm gương sáng của một đại gia đình. Sách có câu: “Trước có mở mang sau mới tươi đẹp”. Bởi vậy chúng tôi biên chép thiên tiểu sử và bản gia phả để lưu chuyền cho con cháu muôn đời, mỗi khi xem đến càng thêm thân ái, phát triển không ngừng./.
                                               Lạc Tràng phiên dịch và biên chép.
                                                        Nhưng tôn Bạch Quốc Trung và Bạch Văn Trình                                        
                                               Bái thư.
Văn Khấn giỗ
(Cụ Bạch Văn Trình dự thảo)
Hôm Nay là ngày.......... tháng......... năm
Nước Việt nam dân chủ cộng hòa năm thứ ......
Con (hay cháu) là......................... cùng mọi người trong họ sửa soạn đèn hương Trầu rượu, cỗ bàn v.v....
Kính dâng....................
Hiển Khảo hoặc Hiển Tỷ v.v.....
Trước linh tọa khóc mà than rằng:
Sót thay cha (hay mẹ) ta từ trần đã lâu, tiếng người xa cách, năm qua tháng lại ngày giỗ hôm nay......... Nhớ đến công ơn, đau thương khôn xiết, kính dâng lễ mọn, gọi chút lòng thành, hồn người có thấu, xin về chứng minh nay kính mời.
Lại kính mời các vị từ tổ tiên trở xuống cùng về phối hưởng.


 Bản thiên tiểu sử gia phả họ bạch
(Của cụ Hoàng Giáp Bạch Đông Ôn lưu truyền gửi tới các phái Họ Bạch)
(Bản gốc bằng chữ Hán Cụ Bạch Quốc Trung và Cụ Bạch Văn Trình dịch ra chữ quốc ngữ)
Nguyên Họ Bạch là chi Hữu Hùng dòng dõi chúa nước Sở ngành Can, phái họ Hiên Viên Hoàng Đế bên Trung Hoa.
Khi xưa Đức Hùng Thông giúp Vua Vũ Vương nhà Chu đánh đuổi Vua Trụ Vương nhà Ân hoang dâm vô nhân đạo, có công khó nhọc nên Vũ Vương nhà Chu chia nước Trung Hoa làm 111 nước. Vua Vũ Vương ở một nước lớn còn 110 nước nhỏ gọi là chư hầu; chia cho các em và bề tôi có công được phong làm Chúa chư hầu để cai trị các nước chư hầu.
Đức Hùng Thông được phong làm chúa nước Sở Hầu còn Vua Vũ Vương là Thiên Tử nhà đại Chu cai trị gồm cả 111 nước.
Đức Hùng Thông làm Chúa nước Sở chuyền ngôi cho con cháu được 25 đời . Từ Đức Hùng Thông đến Đức Hùng Cư là 15 đời. Đức Hùng Cư sinh được con cả là Thế Tử Kiến con vợ cả, khi vợ cả chết, yêu vợ lẽ lập con vợ lẽ làm Thế Tử để nối ngôi, đuổi Thế Tử Kiến đi nơi khác. Quan cựu thần nước Sở là ông Ngũ Sa cùng 2 con ông là Ngũ Thượng, Ngũ Tử Tư thấy Chúa ở không công bằng nên theo đi giúp Thế Tử Kiến. Đức Hùng Cư âm mưu gọi ông Ngũ sa và Ngũ Thượng về triều giết đi; Ngũ Tử Tư thấy cha và anh bị giết vội đem Thế Tử Kiến trốn sang nước Trịnh là họ Ngoại Thế Tử Kiến; Vì vậy Thế Tử Kiến được nơi nương dựa.
Thế Tử Kiến sinh được 2 con là Ông Thắng và Ông Thiện. Ông Thắng mặt trắng như phấn, bấy giờ Chúa nước Ngô là Phù Sai đương hùng cường, kén rể cho con gái gieo quả cầu; Ông Thắng bắt được quả cầu nên được làm rể nước Ngô, sau Ông Thắng mượn quân nước Ngô, nước Trịnh giúp đem về đánh nước Sở, đánh đuổi  quan Thái Thú là Ngụy Tử Tây, cướp lấy Uyển Thành sau tranh điển sinh thêu cờ hiệu là Bạch Công Thắng, chỗ đóng quân là Bạch Công Thành. Phong cho em là Ông Thiện làm đại tướng.
Sau ÔngThắng bị Sở Huệ Vương trá giảng hòa  vời về triều âm mưu sai Ngụy Công Mạnh lén vào cướp thành; Sai người trong họ là công tử Thân phục quân đao phủ lừa giết. Khi Ông Thắng cùng gia quyến bị giết rồi, 2 con Ông Thiện chạy trốn. Con thứ 2 Ông Thiện là Ông Quý Canh trốn sang nước Tống, được làm chức Triều Tán Đại Phu, con cháu nối làm quan khanh nước Tống.
Con cả Ông Thiện là Ông Khổng Nhâm trốn sang nước Đường. Con cháu làm quan ở nước Đường. Từ đấy đổi tên họ là họ Bạch: Văn hay như Ông Bạch Cư Dy, Ông Tràng Thiên, Ông Văn Thiên Tường thất bộ thành thi, nổi tiếng là những bậc hay chữ ở nước Đường.
Võ mạnh như Ông Bạch Khởi giúp Tần Tương Vương và Tần Thủy Hoàng đánh dẹp các nước chư hầu thời chiến quốc thu gồm vào một nước Doanh Tần. Tần Thủy Hoàng phong vương tước cho ông Bạch Khởi, lấy đất phủ Thái Nguyên Trung Hoa một nghìn mẫu ruộng cấp cho Ông Bạch Khởi, cho cả họ và đầy tớ cầy cấy lộc điền mà ăn.
Đến đời Vua Cao tổ nhà Hán là Lưu Quỳ đánh đuổi Tần Tử Anh là con Tần Thủy Hoàng tịch thu số ruộng lộc điền của Ông Bạch Khởi, lại kể tội ác Ông Bạch Khởi trong thời gian giúp nhà Tần. Con cháu và họ sợ vạ lây phải chạy trốn. Có một phái trốn sang Việt nam từ đời Thục An Dương Vương ở với dân Mường tỉnh Bắc Giang bấy giờ.
Mãi đến đời Vua Tiền Lý Nam Đế dòng dõi họ Bạch dời ra ở thôn Nguyên Xá (tức Vôi Giếng). Một Ông làm chức Phủ Hiệu, sau đó con là ông Phấn ưng ra giúp Vua hậu Lý Nam Đế, đánh đuổi được giặc, đánh đông dẹp bắc  đều đại thắng được phong chức Đại tướng sau đi xứ nhà Hán nước Trung Hoa tặng 6 chữ: “Bạch gia Thiên Lý Câu Hỹ”. (nghĩa là: dòng dõi họ Bạch như ngựa Câu chạy giỏi ngàn dặm; lại phong thêm cho Ông Phấn ưng là Cẩm Khê hầu. Đến Triều Lý Công Uẩn, nhà Lý phát đạt nhiều. Từ đấy họ Bạch nổi danh tiếng ở nước Việt Nam.
Sau có 5 phái dời về các nơi (Bắc Bộ)
1.Một phái ở với người Mường xã Ba Trại huyện Bất Bạt tỉnh Sơn Tây.
2.Một phái về huyện Thanh Trì tỉnh Hà Đông
3.Một phái ở phủ Nho Quan Ninh Bình.
4.Một phái dời về ở thôn Lau, thôn Cói xã An Đổ huyện Bình Lục tỉnh Hà Nam
5.Một phái hai anh em Cụ: Bạch Quốc Hiên, Cụ Bạch Quốc Viên cùng đỗ tiến sĩ ở triều Trần.
Em là Cụ Bạch Quốc Viên lấy vợ ở thôn Bạch Thượng tổng Bạch Sam định cư ở đấy. Sau dòng dõi dời về thôn Thần Nữ (thôn Đồng Văn) cùng huyện Duy Tiên tỉnh Hà Nam.
Anh là Cụ bạch Quốc Hiên lấy vợ ở thôn Phù Sơn tổng Phù Lưu huyện Kim Bảng định cư ở thôn Phù Sơn.
Đến triều Lê ở Phù Sơn bị ông Cống Cử họ Kiều lập trại ở, làm đoạn thương Long mạch mả tổ họ Bạch. Trong họ cửa nhà sa sút, người bị chết non nhiều. Cụ Thủy tổ ta là Bạch Đình Luận lấy làm căm giận, đến thôn Lạc Tràng mở trường dạy học. Cụ lấy cụ bà người họ Phạm Quỳ ở thôn Lạc Tràng. Thời triều Lê cụ đỗ cống cử trước đỗ cử nhân, sau vào thi hội không đỗ mới gọi là cống cử. Cụ Bạch Đình Luận đến khởi tổ họ Bạch ở thôn Lạc Tràng, tức là cụ Thủy tổ mở đầu khoa mục cho họ Bạch ta ở Lạc Tràng. Sau đến triều Nguyễn thời Vua Tự Đức Cụ Bạch Xuân Quyền ở Lạc Tràng lấy cụ Bà người họ Đoàn ở thôn Liễu Đôi huyện Thanh Liêm, con cháu xuống ở quê mẹ ; Sau dời ở thôn Lê. Đến bây giờ đã 5,6 đời dòng dõi rất đông  đều phát đạt cả.
Nguyên họ Bạch từ thuở xưa đến nay có đất di cư nên lấy vợ hay làm con nuôi ở đâu thời lập ngay gia cư ở đấy, thường thường ở quê hương mẫu quán nhiều. Họ Bạch di cư khắp miền Nam, miền Bắc, miền Trung, chứ trong nước Việt nam không có 2 họ Bạch.
Mộ tổ Bạch Quốc Hiên bia đề: Tổ Bạch Quốc Hiên, tiến sỹ đời nhà Trần, ngày giỗ: 3/3, mộ táng ở đồng mầu thôn Cao Mỹ xã Tượng Lĩnh. Câu đối ở mộ đề
Bên phải: Kinh thánh tâm niệm phúc nhân lai
Bên trái: Âm đức tầm thanh thiên địa bạch
Ngai thờ tổ có bài vị viết: Bạch tộc từ đường thủy tổ Bạch Quốc Hiên chân linh thần vị (thờ tại nhà ông Bạch Văn Kiền, thôn Lưu Giáo, xã Tượng Lĩnh, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam).


Phần II: phả hệ Đời thứ nhất, thứ hai, thứ ba, thứ tư



Phần II: phả hệ
Đời thứ nhất
Cụ Thủy tổ Bạch Đình luận
Là con trai thứ 2 Cụ Bạch Đình Nhuận, là cháu 6 đời tổ Bạch Quốc Hiên Tiến sĩ đời nhà Trần (1374) quê ở Phù Sơn nay là làng Lưu Giáo, xã Tượng Lĩnh, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam.
Thuở nhỏ tổ học thông minh, có chí học vấn. Triều hậu Lê đời Vua Lê Trung Tông (1548-1556) tổ học đỗ cử nhân, rồi đỗ cống cử được sung vào làm học trò trường Quốc Tử Giám (ở Thăng Long thành tức Hà Nội bây giờ), nhưng thi hội không đỗ. Cụ cống cử Bạch Đình Luận trở về Phù Sơn dạy học. Đến triều Lê Anh Tông (1556-1573) tổ dời Phù Sơn về Lạc Tràng mở trường dạy học. Cụ lấy tổ bà là Phạm Thị Quỳ quê Lạc Tràng. Sinh được 1 trai
1.Trưởng nam là cụ Bạch Tuấn Mậu.
Tổ thọ 73 tuổi, mất ngày 15 tháng 2, mộ an táng ở ruộng mạ xứ vườn Bún tọa Mão hướng Dậu thôn Lạc Tràng. Bị vỡ đê bồi lấp lên, mất mộ.
Tổ bà thọ 60 tuổi, mất ngày 25 tháng 10. Mộ táng ở đường gạo, thôn Nham Tràng, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam.
Khấn:
Hiển thủy tổ khảo Lê Triều Cống Cử xung Quốc Tử Giám, sinh Bạch Quý Công tự Bạch Đình Luận Thụy viết chất hậu Phủ quân.
Hiển thủy tổ tỷ tiền Cống Cử Bạch môn chính thất Phạm Thị Hàng Nhất húy Quỳ hiệu diệu công nhụ Nhân.



Đời thứ 2
Hiển thế tổ Bạch Tuấn Mậu
Là con trưởng tổ Bạch Đình Luận, bình sinh tổ cố cần lao học tập để nối nghiệp ông cha, nhưng chỉ trúng hai khóa tam trường. Chuyên nghề dạy học. Cụ lấy tổ bà người họ Chu thôn Hòa Lạc. Sinh được 1 trai.
1.Trưởng nam là cụ Bạch Công Tuyển.
Tổ thọ 65 tuổi, mất ngày 7 tháng 2. Mộ táng tọa Hợi hướng Tỵ, ở xứ đồng Dâu thôn Sơn Nga, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam.
Tổ bà thọ 60 tuổi, mất ngày 11 tháng 10, mộ táng tọa Nhâm hướng Bính ở xứ đường Phan Kinh Thủy, huyện Thanh Liêm Kim tinh thụ huyệt.
Khấn:
          Hiển thế tổ khảo tiền nhị khoa tam trường: Bạch Quí Công tự Tuấn Mậu, thụy viết phúc đức phủ quân.
Hiển Thế tổ tỷ Bạch môn chính thất Chu Thị Hàng Tam hiệu Từ thuận nhụ nhân.
 


Đời thứ 3
Hiển Thành tổ khảo Bạch Nguyên Lang tự Công Tuyển
Là con trưởng tổ Bạch Tuấn Mậu, sinh thời học tập theo đời ông cha nhưng chỉ trúng được tam trường. Tổ cũng chỉ dạy học. Cụ lấy tổ bà người họ Phạm trong làng. Sinh được 1 trai, 6 gái theo thứ tự.
1.Trưởng nam là cụ Bạch Quốc Điển.
2. Gái lớn là cụ Bạch Thị Chung
3.Gái thứ 2 là cụ Bạch Thị Ve
4.Gái thứ 3 là cụ Bạch Thị Vinh.
5.Gái thứ 4 là Bạch Thị Chứ, lấy chồng làng
6.Gái thứ 5 là cụ Bạch Thị Chư, lấy cụ ở huyện La Mai
7.Gái thứ 6 là cụ Bạch Thị Chử, lấy cụ Tú Phú Đình
Tổ bà nhan sắc sinh đẹp.
Tổ thọ 80 tuổi, mất ngày 28 tháng 3, mộ táng tọa Đinh, hướng Quý Thổ. tinh thừa khí giác biên thụ huyệt, ở thôn Kim Bảng huyện Kim Bảng.
Tổ bà thọ 80 tuổi, mất ngày 24 tháng 11, mộ táng tọa Mão, hướng Dậu Mộc tinh. Táng tổ ông bên Hữu, táng tổ bà bên Tả.
Khấn:
Hiển thành tổ khảo tiền trúng tam trường Bạch Nguyên Lang tự Công Tuyển thụy viết chất phác phủ quân.
Hiển thành tổ tỷ Bạch môn chính thất Phạm Thị Hàng nhị hiệu từ ý nhụ nhân.



Đời thứ 4
Hiển Thiện Tổ khảo Bạch Quốc Điển húy Bá Điểm
Là con trưởng tổ Bạch Nguyên Lang tự Công Tuyển, tổ học vấn thông minh có tài biện thuyết thi trúng nhị trường. Sau làm chức trấn cai ở tỉnh, chức tuy nhỏ nhưng có quan hệ với triều đình. Tổ ngay thẳng trong sạch, được nhân dân ái mộ. Cụ lấy tổ bà người họ Lưu ở xã Ô Mễ, huyện Bình Lục. Sinh được 3 trai, 3 gái theo thứ tự:
1.Trưởng nam là cụ Bạch Thụ Thái.
2.Trai thứ 2 là cụ Bạch Đào Cận.
3.Trai thứ 3 là cụ Bạch Mai Nham.
4.Gái lớn là cụ Bạch Thị Khuông lấy người họ Bùi ở làng.
5.Gái thứ 2 là cụ Bạch Thị Kiêm lấy người họ Phạm xã ngoại Khê.
6.Gái thứ 3 là cụ Bạch Thị Thanh lấy cụ họ Trần không có con, mất ngày 18 tháng 4.
Tổ thọ 75 tuổi, giỗ ngày 29 tháng 5
Tổ bà thọ 80 tuổi, giỗ ngày 13 tháng 7
Mộ hợp táng ở xứ vườn Bún tọa Nhâm hướng Đinh Thổ tinh thụ huyệt ở thôn Lạc Tràng.
Khấn:
Hiển thiệu tổ khảo tiền trấn cai Bạch Quý Công tự Quốc Điển húy Bá Điểm thụy viết lạc dung phủ quân.
Hiển Thiệu tổ tỷ tiền trấn cai Bạch môn chính thất Lưu Thị Hàng nhất hiệu đoan chính nhụ nhân.


Chú thích: Từ đời thứ nhất đến đời thứ 3 mỗi đời chỉ sinh được 1 con trai. Đến đời thứ 4 (Hiển Thiện Tổ khảo Bạch Quốc Điển húy Bá Điểm) sinh được 3 con trai. Từ đời thứ 5 trở đi Tộc phả họ Bạch Lạc Tràng được chia ra làm 3 chi: chi Giáp, chi ất và chi Bính.

chương I: Chi giáp: Đời thứ 5 và Đời thứ 6 chi giáp



chương I: Chi giáp
Đời thứ 5
Cụ Tổ: Bạch Thụ Thái
Là con trưởng cụ Bạch Quốc Điển, là tổ tiên của chi Giáp, trưởng họ Bạch Lạc Tràng. Bình sinh cụ chuyên cần học tập, thi chỉ trúng tam trường, thôi học trở về làm chánh tổng kiêm chức chi bạ Nam Sơn trấn. Cụ phù Lê chống nhau với Nguyễn Hữu Chỉnh, sai cất cầu phao sông Châu Giang, không cho quân của Chỉnh sang sông. Cụ đưa tổ bà chạy vào thôn Hòa Lạc trở về đánh nhau với Nguyễn Hữu Chỉnh, bị quân của Chỉnh bắn chết. Cụ vốn tính nhân từ nên được nhân dân địa phương ái mộ. Cụ lấy tổ bà Nguyễn Thị Thái thôn Đại Hoàng. Sinh được 4 trai, 2 gái theo thứ tự:
1.Trưởng nam là cụ Bạch Xuân Hài.
2.Trai thứ 2 là cụ Bạch Xuân Thành.
3.Trai thứ 3 là cụ Bạch Quốc Cơ.
4.Trai thứ 4 là cụ Bạch Quốc Bính
5.Gái lớn là cụ Bạch Thị Khiêm lấy cụ Thủ bạ họ Phạm, sinh ra cụ Phạm Kiều Tấn trong làng.
6.Gái út là cụ Bạch Thị Vịnh lấy cụ Vũ Kim Đảm, sinh ra cụ Huyện Duyên trong làng.
Cụ thọ 53 tuổi, mất ngày 20 tháng 11 mộ táng tọa Cấn hướng Khôn Thổ tinh giác biên thụ huyệt xứ vườn bún thôn Lạc Tràng.
Cụ bà thọ 83 tuổi, mất ngày 25 tháng 2 mộ táng tọa Càn hướng Tốn Thổ tinh giác biên thụ huyệt xứ Vườn Bún thôn Lạc Tràng.
Khấn:
Cụ Bạch Thụ Thái là hiển thiệu tôn Giáp chi tổ khảo tiền thập đình hầu kiêm Nam Sơn chấn chi bạ Bạch Quý Công đệ nhất lang tự Thụ Thái thụy viết lạc thị Phủ quân.
Hiển thiệu tôn Giáp chi tổ tỷ tiền thập đình hầu kiêm Nam Sơn chấn chi bạ Bạch môn chính thất Nguyễn Thị Hàng Nhất húy Thái hiệu diệu Thịnh nhụ nhân.






Đời thứ 6 chi giáp
Phái trưởng chi Giáp, trưởng họ Bạch Lạc Tràng
1. Cụ Bạch Xuân Hài là con trưởng tổ Bạch Thụ Thái. Trưởng họ Bạch Lạc Tràng. Cụ trưởng thành đã có vợ nhưng không có con.
Cụ mất ngày 18 tháng 10 mộ táng xứ vườn Bún thôn Lạc Tràng, vợ đi lấy chồng khác.
Phái 2 kế trưởng chi Giáp
2. Cụ Bạch Xuân Thành là con trai thứ 2 tổ Bạch Thụ Thái. Kế trưởng họ Bạch Lạc Tràng.
Hoàn cảnh cha mất sớm, mẹ già, anh cả mất sớm nên cụ rất vất vả tần tảo nuôi mẹ và các em, gây dựng cho các em, trai có vợ, gái có chồng. Cụ ông lấy cụ bà Hoa Thị Thìn thôn Mễ Tràng huyện Thanh Liêm. Sinh được 3 trai, 9 gái theo thứ tự:
1.Trưởng nam là cụ Bạch Xuân Tính (tự Hữu Du).
2.Trai thứ 2 là cụ Bạch Tự Cường.
3.Trai thứ 3 là cụ Bạch Xuân Quyền.
4.Gái lớn là cụ An Trưởng
5.Gái thứ 2 là cụ Lễ Hoán
6.Gái thứ 3 là cụ Bá Phú.
7.Gái thứ 4 là cụ Bộ Thực
8.Gái thứ 5 là cụ Quảng
9.Gái thứ 6 là cụ Thủ Tùng.
10.Gái thứ 7 là cụ Lý Cẩn.
11.Gái thứ 8 là cụ Cai Đạt
12.Gái thứ 9 là cụ Huy
Nhà nghèo đông con cụ không lúc nào được nhàn. Cụ bà đi buôn thúng bán mẹt đến năm Vua Gia Long thứ tư đặt điếm canh phòng, cứ 200 dặm đặt một điếm. Lúc ấy Châu Cầu và Lạc Tràng 2 xã liền nhau một dải phải đặt 1 điếm. Vì vậy hai xã cử cụ người ngay thẳng biết chữ và cần mẫn làm cán sự sau được sắc phong chánh đội trưởng thực dụng bá. Đến đời vua Minh Mạng điếm đem lên Lam Cầu, cụ lại được sắc giữ làm tổng tỉnh đội trưởng sai phái, đợi khi nào khuyết mới bổ nhiệm chính thức. Cụ đợi đến 3 tháng vẫn không thấy bổ nhiệm; Tuổi cụ đã 60 cụ xin về an dưỡng được sự đồng ý của tỉnh y cho nguyên hàm.
Cụ ông thọ 86 tuổi, mất ngày 8 tháng 5.
Cụ bà thọ 84 tuổi, mất ngày 1 tháng 3.
Mộ 2 cụ đều táng ở xứ chợ Sấu xã Liêm Túc huyện Thanh Liêm. (Mộ hai cụ đã được các cháu chắt ngành trưởng và ngành 3 xây ngày 9/3 năm Canh Dần (2010).
Phái 3 chi Giáp
3. Cụ Bạch Quốc Cơ là con thứ 3 cụ Bạch Thụ Thái. Sinh thời cụ nhà nghèo, bố mất sớm. Cụ học vấn bình thường chỉ trúng nhiêu học sau cụ ra làm trưởng xã coi việc tuần phòng. Cụ lấy cụ bà người họ Đinh. Sinh được 4 trai 2 gái theo thứ tự:
1.Trưởng nam là cụ Bạch Quốc Bồi
2.Trai thứ 2 là cụ Bạch Quốc Triệu
3.Trai thứ 3 là cụ Bạch Trọng Đạo
4.Trai thứ 4 là cụ Bạch Trọng Đức
5.Gái lớn là cụ Bạch Thị Thanh lấy cụ Bá Phú thôn Đình Trường
6.Gái thứ 2 là cụ Bạch Thị Lương lấy cụ họ Đặng ở thôn Hòa Lạc
Gia đình sinh sống chuyên nghề làm ruộng vào bậc phú nông.
Cụ thọ 67 tuổi.
Cụ bà thọ 72 tuổi
Mộ 2 cụ đều táng ở xứ Vườn Bún thôn Lạc Tràng.
Phái 4 chi Giáp
4. Cụ Bạch Quốc Bính là con trai thứ 4 tổ Bạch Thụ Thái. Sinh thời cụ học vấn minh mẫn thi trúng nhị trường sau thi lại khoa được bổ chức đề lại ở huyện Tiên Lữ tỉnh Hưng Yên. Cụ lấy cụ bà người họ Phạm. Sinh được 3 trai, 1 gái theo thứ tự:
1.Trưởng nam là cụ Bạch Đông Ôn.
2.Trai thứ 2 là cụ Bạch Doãn Cung.
3.Trai thứ 3 là cụ Bạch Xuân Hảo.
4.Gái lấy cụ Phó Cộng thôn Đại Hoàng.
Cụ thọ 63 tuổi.
Cụ bà thọ 73 tuổi chết ngày nào không biết.
 Mộ 2 cụ đều táng tại Vườn Bún thôn Lạc Tràng.

Đời thứ 7 chi giáp



Đời thứ 7 chi giáp
Ngành trưởng, phái 2 kế trưởng chi Giáp
1.Cụ Bạch Xuân Tính (tự Hữu Du) là con trưởng tổ Bạch Xuân Thành. Kế trưởng họ Bạch Lạc Tràng. Sinh thời cụ chuyên nghề văn học , thi trúng nhị trường sau về dạy học. Cụ lấy cụ bà người họ Trịnh thôn Đại Hoàng, chuyên nghề buôn bán, sinh được 3 trai, 2 gái theo thứ tự:
1.Trưởng nam là cụ Bạch Xuân Khâm.
2.Trai thứ 2 là cụ Bạch Xuân Duy
3.Trai thứ 3 là cụ Bạch Xuân Trường
4.Gái lớn là cụ Bạch Thị Trẩn lấy cụ Đỗ Cau người Nghệ An.
5.Gái thứ 2 là cụ Bạch Thị Tịch lấy cụ Cống Tiệm họ Vũ cùng làng.
Cụ thọ 49 tuổi, mất ngày tháng năm nào không rõ,
Cụ bà thọ 53 tuổi, mất ngày 20 tháng 4.
Mộ 2 cụ an táng tại xứ Vườn Bún thôn Lạc Tràng.
Ngành 2, phái 2 kế trưởng chi Giáp
2. Cụ Bạch Tự Cường là con trai thứ 2 tổ Bạch Xuân Thành. Sinh thời cụ học vấn bình thường; Thi trúng nhiêu học sau làm Phó Lý. Cụ lấy cụ bà là người họ Phạm trong làng. Sinh được 2 gái.
1.Gái lớn lấy cụ Trịnh Thông Minh ở thôn Đại Hoàng.
2.Gái thứ 2 lấy cụ Phạm Văn Thố Lạc Tràng.
Cụ thọ 45 tuổi, mất ngày 29 tháng 8
Cụ bà thọ 48 tuổi, mất ngày 20 tháng 2.
Mộ 2 cụ đều táng ở xứ Quán Thánh thôn Tháp xã Liêm Túc huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam.
Ngành 3, phái 2 kế trưởng chi Giáp
3. Cụ Bạch Xuân Quyền là con trai thứ 3 tổ Bạch Xuân Thành, lúc còn nhỏ cụ có trí chuyên cần học tập cùng với 2 anh theo thầy đường xa chẳng quản ngại, tài năng thi phú, cùng 2 anh thường thường thi cử nhưng không đỗ chỉ trúng tam trường thôi. Chẳng may anh cả cụ lại mất sớm, cụ càng căm hờn. Bạn cụ là cụ Tú Bùi và em họ cụ là cụ Phú Bồi can cụ rằng: “Học quí tự đắc, an vấn nhân chi” (nghĩa là học để mà biết, sợ gì không ai biết đến mình là người hay chữ, chớ lấy việc thi hỏng mà sờn lòng, học tài thi phận). Đến năm 32 tuổi cụ mới lấy cụ bà người họ Đoàn Thuần Hậu ở thôn Sấu xã Liêm Túc huyện Thanh Liêm. Sinh được 5 trai, 3 gái theo thứ tự.
1.Trưởng nam là cụ Bạch Xuân Thưởng.
2.Trai thứ 2 là cụ Bạch Xuân Phương
3.Trai thứ 3 là cụ Bạch Xuân  Thảng (tức cụ Ba Niêm)
4.Trai thứ 4 là cụ Bạch Văn Khản
5.Trai thứ 5 là cụ Bạch Văn Hưu (chết lúc còn nhỏ)
6.Gái lớn là cụ Bạch Thị Em,
7.Gái thứ 2 là cụ Bạch Thị ái
8. Gái thứ 3 là cụ Bạch Thị Đỏ
Năm cụ 44 tuổi anh thứ hai cụ là cụ Tự Cường mất ngày 29 tháng 8. Cụ Thuần Hậu hiếu thảo đem con thứ hai (tức cụ Phương) nối tự. Cụ thương anh khóc hàng tháng quên cả ăn, uống, rượu, chè, cụ mắc bệnh nặng, mất ngày 28 tháng 9 cùng năm anh cụ mất. Đều mất ở thôn Lạc Tràng. Đến năm sau con trai út cụ là cụ Hưu chết. Gia đình càng túng bấn buồn bã thêm. Các con còn bé dại, một mình cụ bà kiếm không đủ cơm ăn áo mặc, may được tổ ngoại là Thiên Hộ Đoàn Sỹ Nguyên (Ký Lĩnh) thôn Sấu xã Liễu Đôi (Liêm Túc) huyện Thanh Liêm, nhà giàu có, thương cụ bà chồng chết đông con nghèo túng, nên bắt cụ bà đem con về thôn Sấu, rồi tổ cho một khu ruộng đất ở thôn Lê xã Mỹ Xá (tức Liêm trực) và làm nhà cho cụ bà ở đây làm ruộng, nuôi các con, trai đi học, gái canh cửi, nhờ ơn cụ tổ ngoại gây dựng cho, nuôi các con được trưởng thành, trai lấy vợ, gái gả chồng đều được tử tế.
Cụ thọ 44 tuổi mất ngày 28 tháng 9. Mộ táng ở Lạc Tràng, sau con cháu đưa về xứ núi thôn Lê xã Liêm Trực tức xã Liêm Sơn ngày nay (ở gần chùa Lầy)
Cụ bà thọ 92 tuổi mộ táng ở xứ Mả Bắc xã Liêm Trực. Giỗ ngày 30 tháng 2
Đến nay cụ Bạch Xuân Quyền là cụ khởi tổ họ Bạch ở thôn Lê xã Liêm Trực huyện Thanh Liêm từ đời dòng dõi các chúa Nguyễn (Nguyễn Phúc Thuần năm 1765-1777).
Khánh thành từ đường thờ tổ Bạch Xuân Quyền tại thôn Lê xã Liêm Sơn huyện Thanh Liêm ngày 17 tháng 4 năm Bính Tuất (tức chủ nhật ngày 14 tháng 5 năm 2006).
Ngành trưởng, phái 3 chi Giáp
4. Cụ Bạch Quốc Bồi là con trưởng cụ Bạch Quốc Cơ. Sinh thời cụ học tập thông minh; Thi đỗ tú tài thời nhà Nguyễn; rồi sau dần dần làm nên chức tri phủ. Cụ lấy 2 vợ. Cụ vợ cả người họ Trịnh thôn Đại Hoàng. Cụ vợ hai người họ Nguyễn thôn Đồng Văn xã Tiên Lý huyện Duy Tiên. Sinh được 3 trai.
          1.Trưởng nam là cụ Bạch Văn Thông.
2.Trai thứ 2 là cụ Bạch Văn Minh.
3.Trai thứ 3 là cụ Bạch Văn Thế
Cụ thọ được 63 tuổi.
Cụ vợ cả thọ được 41 tuổi.
Cụ vợ 2 thọ được 71 tuổi.
Ba cụ chết ngày, tháng nào đều không rõ.
Mộ 3 cụ hợp táng ở xứ Vườn Bún thôn Lạc Tràng.
Ngành 2 , phái 3 chi Giáp
5. Cụ Bạch Quốc Triệu là con trai thứ 2 cụ Bạch Quốc Cơ. Sinh thời cụ học tập thi trúng nhị trường, sau cụ ra làm chánh tổng được sắc Bách Bộ. Cụ lấy cụ bà người họ Đinh (Đinh Thị Ba) ở làng. Cụ sinh được 3 trai, 2 gái.
1.Trưởng nam là cụ Bạch Bá Khải.
2.Trai thứ 2 là cụ Bạch Văn Chưng.
3.Trai thứ 3 là cụ Bạch Xuân Mộc  (tức cụ Ba Móc)
4.Gái lớn là cụ Bạch Thị Đỏ lấy cụ chánh tổng người thôn Đục Khê tỉnh Hà Đông.
5.Gái thứ 2 là cụ Bạch Thị Dỏ lấy cụ Bát Kỳ người họ Phạm ở làng.
Cụ thọ được 67 tuổi; mất ngày tháng nào không rõ. Mộ táng ở sau đình Đại Hoàng thôn Đại Hoàng.
Cụ Bà thọ 79 tuổi. Mất ngày tháng nào không rõ. Mộ táng ở xứ vườn Quýt thôn Đại Hoàng.
Ngành 3, phái 3 chi Giáp
6. Cụ Bạch Trọng Đạo là con trai thứ 3 cụ Bạch Quốc Cơ. Sinh thời cụ học trúng nhiêu học, sau cụ phải ra lính khố đỏ thăng ngũ trưởng. Cụ lấy cụ bà người họ Hoàng thôn Hoà Lạc. Sinh được 3 trai, 1 gái.
1.Trưởng nam là cụ Bạch Văn Giảng.
2.Trai thứ 2 là cụ Bạch Văn Tĩnh.
3.Trai thứ 2 là cụ Bạch Văn Dũng.
4.Gái là cụ Bạch Thị Kỷ Lấy cụ Cao Văn Sách ở làng.
Cụ ông thọ 53 tuổi. Cụ bà thọ 57 tuổi. Mất ngày tháng nào không rõ. Mộ 2 cụ đều táng ở Đại Vĩnh thôn Lạc Tràng. (Mộ cụ ông để sát tường rào nhà ông Đỗ Văn Thủy, có bia đá bằng chữ nho do hiếu tôn Bạch Xuân Đào  con trưởng cụ Cột dựng từ năm 1919 đời Vua Khải Định)
Ngành 4, phái 3 chi Giáp
7. Cụ Bạch Chính Đức (1838) sinh tại Lạc Tràng là con trai thứ 4 cụ Bạch Quốc Cơ. Sinh thời cụ học vấn thông minh trúng nhất trường thời Pháp thuộc, cụ phải đi lính khố đỏ thăng chức chánh quản cụ tại ngũ vẫn liên hệ với cụ Lãnh tức cụ Đinh Công Tráng. Sau cụ bỏ ngũ làm tướng cụ Đinh Công Tráng tham gia cuộc khởi nghĩa Ba Đình ở tỉnh Thanh Hóa (trong phong trào Cần Vương) chống nhau với quân Pháp; Cụ đã chiến đấu anh dũng và hy sinh cùng với cụ Đinh Công Tráng trong đêm 20 tháng 1 năm 1887. Cụ lấy cụ bà người họ Đinh ở làng sinh được 1 trai
1. Trưởng nam là cụ Bạch Văn Cột.
Cụ thọ 49 tuổi hy sinh tại Thanh Hóa đêm 20 tháng 1 năm 1887
Cụ bà thọ 63 tuổi. Mất ngày tháng nào không rõ.
Mộ 2 cụ đều táng ở xứ Vườn Bún thôn Lạc Tràng.
Ngành trưởng, phái 4 chi Giáp
8. Cụ Bạch Đông Ôn (1811 tự là Hòa Phủ ) sinh tại Lạc Tràng  là con trưởng cụ Bạch Quốc Bính. Sinh thời cụ học vấn thông minh tư chất liêm chính. Thi đỗ Hoàng giáp (tiến sỹ) làm chức thị độc thời Minh Mạng; sau thăng chức Thái phó dạy vua Tự Đức; rồi làm quan ngự sử, có lần đi thanh tra các tỉnh Miền Bắc, để tra xét tham ô quan lại, rất công bình, có công thời thưởng, có tội thời phạt, chứ không ăn lễ của ai một đồng. Nên em họ cụ là cụ Giáo Tộ (tức cụ Bạch Văn Tộ trưởng ngành 4 phái 2 chi ất) đi làm học trò để biên chép, chỉ ăn lương thôi, không được đồng ngoại nào, đi theo anh họ trong 2 tháng về được ít giấy viết dở và 5 cái bút cũng viết dở cả. Thời Tự Đức thấy Vua Tự Đức ký hoà ước với Pháp để người Pháp bảo hộ nước Việt Nam, cụ can ngăn mãi không được vì thế cụ xin về hưu trí ra ở phố Hàng Đào Hà Nội tĩnh dưỡng, ngày đêm chỉ  uống rượu ngâm thơ làm vui thú. Cụ lấy cụ bà người họ Bùi (con gái cụ hình bộ Thượng thư) tỉnh Hà Tĩnh. Sinh được 1 trai, 1 gái
 1.Trưởng nam là là cụ Bạch Đôn
2.Gái là cụ Bạch Thị Hoà lấy cụ Tú Đào người Thanh Quang Tỉnh Hà Nội.
Cụ làm quan rất thanh Liêm, nhà nghèo cụ uống rượu chỉ nhấm ngô rang, cơm ăn chỉ có rau dưa, tương cà thôi. Bạn và học trò của cụ thấy cụ nghèo túng đem tiền bạc đến biếu cụ nhất định không nhận, ai biếu rượu thời cụ lấy, sau có người bạn lén bỏ bạc vào hũ rượu, cụ đem trả cả bạc và hũ.
Cụ thọ 71 tuổi, mất ngày 14 tháng 3 (năm 1881), khi cụ mất vua Tự Đức có viếng 4 chữ: “Thanh bạch vi thủ” và trao tặng sắc Duyên Thọ Quận Công, mộ an táng tại nghĩa trang Hà Nội
Cụ bà thọ 70 tuổi, mất ngày tháng  nào không rõ, mộ cụ bà cũng an táng tại nghĩa trang Hà Nội.  
Cụ Hoàng Giáp Bạch Đông Ôn có công với nước với dòng họ (cụ viết bản thiên tiểu sử gia phả họ Bạch gửi tới các phái họ Bạch. Cụ được họ Bạch Lạc Tràng tôn vinh trong danh bia đá tại nhà thờ họ Bạch Lạc Tràng năm 2000.
Ngành 2, phái 4 chi Giáp
9. Cụ Bạch Đoàn Cung sinh ra ở Lạc Tràng là con thứ 2 cụ Bạch Quốc Bính. Sinh thời cụ học vấn trúng nhất trường sau trở về làm lý trưởng. Cụ lấy cụ bà người họ Đinh huý Sáu trong làng. Sinh được 2 trai, 1 gái.
1.Trưởng nam là cụ  Bạch Khắc Phổ.
2.Trai thứ 2 là cụ Bạch Khắc Nhượng.
3.Gái là cụ Bạch Thị Huệ, lấy cụ Nguyễn Văn May (ông cả May) quê ở thôn Phương Lâm xã Đồng Hóa huyện Kim Bảng, sinh ra Nguyễn Thị Thân, Nguyễn Thị Nở và Nguyễn Văn Tương.
Cụ thọ 61 tuổi mất ngày 2 tháng 9. Mộ táng ở xứ Vườn Bún (sau Đình Giáp Ngô thôn Lạc Tràng).
Cụ bà thọ 64 tuổi, mất ngày 12 thán 7. Mộ táng ở xứ Vườn Bún thôn Lạc Tràng.
Ngành 3, phái 4 chi Giáp
10. Cụ Bạch Xuân Hảo sinh ở Lạc Tràng là con trai thứ 3 cụ Bạch Quốc Bính. Sinh thời cụ học vấn thông minh thi trúng nhất trường. Thôi học làm lý trưởng; sau làm chánh tổng 9 năm được sắc cửu phẩm bách bộ ở thời Pháp thuộc. Cụ lấy cụ bà người họ Nguyễn thôn Yên Lệnh huyện Duy Tiên sinh được 3 trai, 3 gái.
1.Trưởng nam là cụ Bạch Ngọc Khuê (tức Khả)
2.Trai thứ 2 là cụ Bạch Ngọc Kha.
3.Trai thứ 3 là cụ Bạch Ngọc Cẩn
4.Gái lớn là cụ Bạch Thị oanh lấy cụ Vũ Văn Tuân ở làng
 5.Gái thứ 2 Bạch Thị Hanh lấy cụ Huyện Mỹ người tỉnh Nghệ An.
6.Gái thứ 3 là cụ Đàm Phương tu ở chùa Lạc Tràng.
Cụ thọ 63 tuổi.
Cụ bà thọ 65 tuổi.
Cụ ông và cụ bà mất ngày tháng nào không rõ.
Mộ 2 cụ đều táng ở xứ Vườn Bún thôn Lạc Tràng.
 
Hỗ trợ : Liên kết 1 | Liên kết 2 | Liên kết 3
Copyright © 2013. Gia phả họ Bạch - Bản quyền
Template tạo Website phát hành bởi Mas Template
Proudly được cung cấp bởi Blogger