Phần I: Phả ký
Tộc phả họ Bạch Lạc Tràng được các bậc
tiền nhân ghi lại rất rõ “cội nguồn tổ tiên”. Tổ Bạch Quốc Hiên Tiến sỹ đời nhà
Trần dời từ Vôi Giếng, Bắc Giang về lập nghiệp ở Phù Sơn, Phù Lưu (nay là làng
Lưu Giáo, xã Tượng Lĩnh, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam).
Tổ tiên Họ Bạch Lạc Tràng là đức Thủy tổ
Bạch Đình Luận, hậu duệ tôn của Tổ Bạch Quốc Hiên, dời từ Tượng Lĩnh về lập
nghiệp ở Lạc Tràng; sinh thành ra dòng dõi Họ Bạch Lạc Tràng (nay là phường
Quang Trung, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam)
Để
tưởng nhớ công ơn sinh thành của tổ tiên; năm 1920 cụ Bạch Văn Lam đời thứ 10
chi Giáp con trai thứ 2 cụ Bạch Văn Tứ ở Ngành trưởng, phái 2 kế trưởng chi
Giáp (kế trưởng Họ Bạch Lạc Tràng) đã phát tâm công đức xây dựng nhà thờ họ
Bạch Lạc Tràng trên đất nhà mình ở phía Bắc cầu Phủ Lý (nay là cửa hàng xăng
dầu thuộc tổ 7 phường Quang Trung, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam. Nhà thờ làm 5
gian bằng gỗ lim, lợp mái ngói ta, thờ đức Thủy Tổ Bạch Đình Luận đến tổ tiên 3
chi, 10 phái. Trong nhà thờ có đôi câu đối của cụ Bạch Trung Khắc (người lập
gia phả Họ Bạch Lạc Tràng ghi lại)
Lạc địa phương danh Hoàng Giáp Hậu,
Phù Sơn cố lý Bạch Gia Tiên.
Năm 1950 Thực dân Pháp chiếm đóng Phủ Lý,
san bằng khu dân cư và nhà thờ Họ Bạch, lập đồn bốt chống phá Cách mạng Việt Nam.
Chiến tranh chống Pháp, chống Mỹ kéo dài
tàn khốc! Nhiều người trong họ phải ly tán xa quê hương. Trong mọi hoàn cảnh
khó khăn, Họ Bạch Lạc Tràng vẫn nhờ vào lòng thành một số gia đình trong họ để
duy trì tổ chức giỗ Tổ hàng năm; để cả họ biểu lộ lòng thành ơn sâu nghĩa nặng
công sinh thành của tổ tiên. Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng. Ngày 30 tháng 4
năm 1975 giải phóng Miền Nam; đất nước hòa bình thống nhất; Bắc Nam xum họp một
nhà. Tự do tín ngưỡng được khôi phục và phát triển. Phong trào tìm về cội nguồn
họ Bạch Lạc Tràng ngày càng đông nhưng nhà thờ họ không còn nữa! Mọi người họ
Bạch Lạc Tràng khát khao và quyết tâm xây dựng lại nhà thờ Họ. Cuối năm 1996
(vào ngày giỗ Tổ Bà 25 tháng 10) trong họ đã cử ra 31 vị vào Ban chấp hành hội
đồng Gia tộc.
Cụ Bạch Sơn Trà đời thứ 9 ở ngành 2, phái
4 chi Giáp làm Chủ tịch.
Cụ Vũ Thị Chén (vợ cụ Bạch Văn Chúc đời
thứ 9 ở ngành 4 phái 2 chi ất làm phó chủ tịch.
Cụ Bạch Ngọc Kinh đời thứ 10 thuộc ngành
trưởng phái 2 chi ất làm trưởng ban.
Tháng 4 năm 1998 Hội đồng Gia tộc Họ Bạch
Lạc Tràng đã gửi thông báo xây dựng nhà thờ Họ tới 3 chi, 10 phái, 23 ngành
trong nước và nước ngoài. Tất cả mọi người mang dòng máu tổ tiên Họ Bạch Lạc
Tràng; ở quê hương, trong nước và nước ngoài đều nhiệt tình hưởng ứng về cội
nguồn và cung cấp nhiều tư liệu quí để bổ sung vào gia phả, tộc phả.
Nhờ vào lòng thành, phát tâm công đức của
cả họ: trai, gái, dâu, rể, các cháu nội ngoại của Tổ, các phái Họ Bạch, nhất là
những cá nhân, gia đình tiêu biểu (danh sách công đức vào sổ vàng lưu tại nhà
thờ họ) cùng với Ban chấp hành hội đồng gia tộc đã tổ chức xây dựng thành công
nhà thờ Họ Bạch Lạc Tràng năm 1999 và xây dựng mọi công việc trong họ ổn định
đi vào nề nếp.
Ngày giỗ Tổ Bà 25 tháng 10 năm (2007) ban
chấp hành hội đồng gia tộc đã hoàn thành nhiệm vụ được tôn vinh 31 vị trên danh
sách bia (để tại nhà thờ Họ)
Ban đại diện Họ Bạch Lạc Tràng do cụ Bạch
Văn Phúc đời thứ 10 (là con trưởng cụ Bạch Văn Chúc), thuộc ngành trưởng, ngành
4 phái 2 chi ất họ Bạch Lạc Tràng làm trưởng Ban; đã kế thừa và phát huy truyền
thống “Uống nước nhớ nguồn” của dòng họ. Đặc biệt đã tổ chức long trọng ngày
giỗ Tổ Ông 15 tháng 2 năm Tân Mão (2011) đã được phát lên mạng, truyền hình ảnh
những hoạt động của Họ ở cội nguồn tới tất cả chúng ta, những người còn đang sống,
mang dòng huyết thống của tổ tiên họ Bạch Lạc Tràng, ở quê hương, trong nước và
nước ngoài biết; thấy rõ sự phát triển của dòng họ Bạch Lạc Tràng và hứa hẹn
gặp mặt nhau tại cội nguồn quê cha đất tổ; Để cùng nhau bày tỏ lòng thành nghĩa
công sinh thành của tổ tiên.
Nhà thờ họ Bạch Lạc Tràng năm 1999 là nhà
thờ Họ (của 3 chi, 10 phái, 23 ngành); được xây dựng trên đất của dòng Họ Bạch
Lạc Tràng, xã Lam Hạ, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam (nay là tổ 8, phường Quang
Trung, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam). Kiến trúc Sư cụ Bạch Sơn Lương ủy viên
Ban chấp hành Hội đồng gia tộc đời thứ 10 ở ngành 2, phái 4 chi Giáp Họ Bạch
Lạc Tràng phụ trách thiết kế.
Kỹ sư xây dựng cụ Bạch Văn Phúc ủy viên
Ban chấp hành Hội đồng gia tộc đời thứ 10 ở ngành trưởng, ngành 4 phái 2 chi ất
Họ Bạch Lạc Tràng điều hành kỹ thuật xây dựng.
Người thay mặt kế trưởng Họ Bạch Lạc
Tràng là gia đình cụ Bạch Văn Khiếu đời thứ 11 (con trai thứ 3 cụ Bạch Văn Như
thuộc hàng trưởng, nhánh trưởng, ngành trưởng phái 2 chi Giáp. Cụ Khiếu qua
đời, vợ cụ là cụ Phạm Thị Cơ và con trai cụ ở quê hương có ông Bạch Văn Hiếu,
Bạch Trọng Huấn đời thứ 12 kế thừa và chịu trách nhiệm quản lý trông nom đèn
nhang tại từ đường từ năm 1999.
Nhà thờ Họ Bạch, khởi công làm lễ động
thổ ngày 6 tháng 11 năm Mậu Dần (24/12/1998). Hoàn thành ngày 25 tháng 10 năm
Kỷ Mão (2/12/1999).
Lễ Yên Vị các linh vị đêm ngày 2 và sáng
3 tháng 5 năm Canh Thìn (3/7/2000)
Nhà thờ Họ Bạch Lạc Tràng hoàn thành năm
1999, thờ đức Thủy Tổ Bạch Đình Luận, tổ tiên độc đinh; đến tổ 3 chi, 10 phái,
23 ngành. Trong hậu cung thờ 40 thần vị.
Thần vị đời thứ nhất: Bài vị viết chữ
nho: Thánh tổ Bạch Đình Luận .
Khấn: Hiển Thủy Tổ khảo Lê Triều Cống
cử sung quốc Tử Giám sinh Bạch Qúy Công tự Đình Luận thụy viết chất hậu phu
quân
Thần vị đời thứ 2: Bài vị viết: Thế tổ
Bạch Tuấn Mậu .
Khấn: Hiển thế Tổ khảo tiền nhị khoa
tam trường Bạch Quý Công tự Tuấn Mậu thụy viết chất hậu phu quân
Thần vị đời thứ 3: Bài vị viết: Thành tổ
Bạch Công Tuyển .
Khấn: Hiển thành Tổ khảo tiền trúng tam
trường Bạch Nguyên Lang tự Công Tuyển thụy viết chất hậu phu quân
Thần vị đời thứ 4: Bài vị viết: Thiệu tổ
Bạch Quốc Điển .
Khấn: Hiển thiệu Tổ khảo tiền chấn cai
Bạch Quý Công tự Quốc Điển húy Bá Điểm thụy viết chất hậu phu quân
Thần vị đời thứ 5:
Chi Giáp
Bạch Thụ Thái
Chi ất
Bạch Đào Cận
Chi Bính
Bạch Mai Nham
Thần vị đời thứ
6: Thờ tổ 10 phái của 3 chi
Chi
Giáp thờ tổ 4 phái
Phái
trưởng: Bạch Xuân Hài
Phái 2:
Bạch Xuân Thành
Phái 3:
Bạch Quốc Cơ
Phái 4:
Bạch Quốc Bính
Chi
ất thờ tổ 3 phái
Phái
trưởng: Bạch Quốc Siêu
Phái 2:
Bạch Trọng Thúc
Phái 3:
Bạch Văn Hoạn
Chi Bính thờ tổ
3 phái
Phái
trưởng: Bạch Xuân Cù
Phái 2:
Bạch Xuân Huyên
Phái 3:
Bạch Xuân Nhiệm (tức nghiện)
Đời thứ 7: Cả Họ Thờ 23 tổ
ngành
Chi Giáp thờ 10 tổ ngành
1.Ngành trưởng, phái 2: Bạch Hữu Du (tức
cụ Bạch Xuân Tính)
2.Ngành 2, phái 2: Bạch Tự Cường
3.Ngành 3 phái 2: Bạch Xuân Quyền
***
4.Ngành trưởng, phái 3:
Bạch Quốc Bồi
5.Ngành 2, phái 3: Bạch Quốc Triệu
6.Ngành 3, phái 3: Bạch Trọng Đạo
7.Ngành 4, phái 3: Bạch Chính Đức
***
8.Ngành trưởng, phái 4:
Bạch Đông Ôn
9.Ngành 2, phái 4: Bạch Doãn Cung
10.Ngành 3, phái 4: Bạch Xuân Hảo
Chi ất thờ 9 tổ ngành
1.Ngành trưởng, phái trưởng: Bạch Quốc
Huynh
2.Ngành 2, phái
trưởng: Bạch Quốc Siêu
***
3.Ngành trưởng, phái
2: Bạch Quang Biểu
4.Ngành 2, phái 2: Bạch Văn Kiểu
5.Ngành 3, phái 2: Bạch Quang Tố
6.Ngành 4, phái 2: Bạch Văn Tộ
7.Ngành 5, phái 2: Bạch Văn Độ
***
8.Ngành trưởng, phái
3: Bạch Văn Đích
9.Ngành 2, phái 3: Bạch Văn Cừ
Chi Bính
thờ 4 tổ ngành
1.Ngành trưởng, phái trưởng: Bạch Xuân
Thự
2.Ngành 2, phái trưởng: Bạch Ngọc Trân
3.Ngành 3, phái
trưởng: Bạch Ngọc Bảo
***
4.Ngành trưởng, phái
2: Bạch Văn Đĩnh
Ban thờ bên phải nhà đại bái: Thờ các
vong cô di tỷ muội nương tựa bóng Tổ che chở
Ban thờ bên trái nhà đại bái thờ danh bia
tôn vinh các vị có công với nước với dòng họ
Các
hoành phi, câu đối
Trong Hậu cung:
Hoành phi 4 chữ nho: Hách Trạng Linh Thanh
Nghĩa là: Nổi tiếng hiển hách linh
thiêng.
Câu đối chữ
nho: Bách thế bản chi thừa cựu ấm
Thiên Thu
hương hỏa tráng tân cơ
Nghĩa là: Phúc xưa dầy lưu gốc cành muôn thuở
Nền
mới vững để hương khói ngàn thu
Trong nhà đại bái:
Hoành phi 4 chữ nho: Truy niệm tiền ân
Nghĩa là: Tưởng nhớ ơn xưa
Câu đối chữ nho: Bản
căn sắc thái ư hoa diệp
Tổ Khảo tinh thần tại Tử Tôn
Nghĩa là: Sắc thái cội cành ở lá
hoa
Tinh thần tiên tổ trong
con cháu
Ngoài hiên
Cuốn thư đắp trên trần hiên đề chữ quốc
ngữ: “Lưu phúc lưu ân”
Nghĩa là:
Lưu giữ mãi
ơn đức tổ tiên
Câu đối ở giữa 2 cột hiên khắc trên đá sẻ
bằng chữ quốc ngữ:
Cây chung ngàn nhánh
sinh từ gốc
Nước chảy muôn dòng phát tại nguồn
Chữ nho là: Mộc
suất thiên chi do hữu bản,
Thủy
lưu vạn phái tổ tòng nguyên
Câu đối 2 bên cột hiên khắc trên đá sẻ
bằng chữ quốc ngữ:
Lớp trước mở mang đức
sáng lưu truyền vĩnh viễn
Đời sau tiếp nối phúc
cao thừa kế huy hoàng
Chữ nho là: Hữu
khai tất tiên minh đức giả viễn hỹ
Khắc xương
quyết hậu kế tự kỳ hoàng phi
Cổng nhà thờ: Ghi chữ quốc ngữ (trong và ngoài cổng)
Mặt trước cổng ghi chữ:
Họ Bạch Lạc Tràng
Câu đối: Tổ tiên tích đức ngàn năm thịnh
Con cháu nhờ ơn vạn đại
vinh
Chữ nho: Đức thừa tiên tổ thiên niên vĩnh
Phúc ấm nhi tôn bách thế vinh
Mặt trong cổng ghi: Khởi công ngày 6 tháng 11 Mậu Dần
(24/12/1998)
Hoàn thành ngày 25 tháng 10 năm Kỷ Mão
(2/12/1999)
Câu
đối ghi chữ quốc ngữ: Nhờ tiên tổ anh linh phù
hộ
Dìu cháu con tiến bộ trưởng thành
Chữ nho là: Dục cấu bảo an vu hậu duệ,
Tu bằng cảm cách ưu tiên linh
Năm Tân Mão (2011)
Thay mặt BCH hội đồng gia tộc
Trưởng ban: Bạch Ngọc Kinh
Chúc Thư
Tôi là Bạch Văn Trình sinh năm 1893 là
trưởng tôn phái 2 kế trưởng chi ất cùng với cụ Bạch Quốc Trung sinh năm 1901 ở
nhánh 2 ngành 3 phái 2 kế trưởng chi Giáp; Thiết nghĩ nay được nhờ ơn Hồ Chủ
Tịch, Đảng và Chímh Phủ lãnh đạo toàn dân kháng chiến đã được độc lập, dân chủ
thực sự ban hành chính sách tự do tín ngưỡng. Chúng tôi lớp người cũ hãy còn
phong kiến sực nhớ đến công ơn tổ tiên, đem thiên tiểu sử họ Bạch: Cụ Hoàng
Giáp Bạch Đông Ôn thời pháp thuộc đời
Vua Minh Mạng đi thanh tra Bắc Kỳ cụ biên được của người trong họ cụ Cẩm
Khê Hầu Bạch Phấn ưng ở thôn Nguyên xá tức Vôi Giếng thuộc tỉnh Bắc Giang, lưu
truyền cho ông Chánh tổng Bạch Trung Khắc giữ mang về. Cụ ghi nối Gia phả từ
Đức Thủy tổ Bạch Đình Luận đến đời thứ 6 bằng chữ Hán, chúng tôi phiên dịch ra
chữ quốc ngữ và sưu tầm tài liệu các ngành các phái trong 3 chi, ghi chép thêm
từ đời thứ 7 đến đời thứ 12, thành bản gia phả họ Bạch để lưu truyền cho cháu
chắt sau am hiểu nguồn gốc, dòng dõi như
thế thì đủ biết có trước mới có sau, có gốc mới có ngọn, để thực hiện câu:
“uống nước nhớ đến nguồn, ăn quả nhớ người trồng cây”, làm người phải có luân
thường, đã biết luân thường phải nhớ đến công sinh thành dưỡng dục, đã sinh nòi
giống, nỡ quyên tổ tiên! Chẳng biết họ mạc gần xa thế nào; Bởi thế ngày nay
nghĩ đến lý lịch hành trạng tiền nhân xây đắp bao đời ngày càng đông đúc.
Ngược lại tổ tiên từ trước đến nay đều
sống trong vòng nội thuộc, rồi đến đế quốc phong kiến đã từng hấp thụ nhiều chế
độ thối nát, cũng có những phần tử ra làm nô lệ cho địch, trái lại đa số lại bị
địch áp bức bóc lột, song cũng có những bậc tiên tiến giác ngộ Cách mạng chống
lại địch như cụ Bạch Đông Ôn đỗ Hoàng Giáp đời Minh Mạng, đời Tự Đức Pháp chiếm
nước cụ không chịu làm quan nô lệ bỏ về dạy học, cụ Bạch Chính Đức theo cụ Đinh
Công Tráng đánh trận Ba Đình bị hy sinh. Thời Thành Thái cụ Bạch Xuân Thận là
danh tướng cho cụ Hoàng Hoa Thám chống địch ở Giã Nam, cụ Bạch Đôn thì tham gia
hội Đông Kinh Nghĩa Thục. Thời Khải Định cụ Bạch Sơn Cương thành lập chi bộ địa
phương bị địch bắt, cụ hy sinh; cụ Bạch Ngọc Lan Tuy làm Chánh tổng nhưng vẫn liên hệ với cán bộ Cách mạng đồng
thời lãnh đạo con cháu cắm cờ dải truyền đơn Núi Non và núi Chanh đó cũng là
các vị anh dũng trong họ tuy không được nêu tên quốc sử, nhưng cũng làm tấm
gương sáng của một đại gia đình. Sách có câu: “Trước có mở mang sau mới tươi
đẹp”. Bởi vậy chúng tôi biên chép thiên tiểu sử và bản gia phả để lưu chuyền
cho con cháu muôn đời, mỗi khi xem đến càng thêm thân ái, phát triển không
ngừng./.
Lạc Tràng phiên dịch và biên chép.
Nhưng tôn Bạch Quốc Trung và Bạch Văn
Trình
Bái thư.
Văn Khấn giỗ
(Cụ Bạch Văn Trình dự thảo)
Hôm Nay là ngày.......... tháng.........
năm
Nước Việt nam dân chủ cộng hòa năm thứ
......
Con (hay cháu)
là......................... cùng mọi người trong họ sửa soạn đèn hương Trầu
rượu, cỗ bàn v.v....
Kính dâng....................
Hiển Khảo hoặc Hiển Tỷ v.v.....
Trước linh tọa khóc mà than rằng:
Sót thay cha (hay mẹ) ta từ trần đã lâu,
tiếng người xa cách, năm qua tháng lại ngày giỗ hôm nay......... Nhớ đến công
ơn, đau thương khôn xiết, kính dâng lễ mọn, gọi chút lòng thành, hồn người có
thấu, xin về chứng minh nay kính mời.
Lại kính mời các vị từ tổ tiên trở xuống
cùng về phối hưởng.
Bản thiên tiểu sử gia phả họ bạch
(Của cụ Hoàng Giáp Bạch Đông Ôn lưu
truyền gửi tới các phái Họ Bạch)
(Bản gốc bằng chữ Hán Cụ Bạch Quốc Trung
và Cụ Bạch Văn Trình dịch ra chữ quốc ngữ)
Nguyên Họ Bạch là chi Hữu Hùng dòng dõi
chúa nước Sở ngành Can, phái họ Hiên Viên Hoàng Đế bên Trung Hoa.
Khi xưa Đức Hùng Thông giúp Vua Vũ Vương
nhà Chu đánh đuổi Vua Trụ Vương nhà Ân hoang dâm vô nhân đạo, có công khó nhọc
nên Vũ Vương nhà Chu chia nước Trung Hoa làm 111 nước. Vua Vũ Vương ở một nước
lớn còn 110 nước nhỏ gọi là chư hầu; chia cho các em và bề tôi có công được
phong làm Chúa chư hầu để cai trị các nước chư hầu.
Đức Hùng Thông được phong làm chúa nước
Sở Hầu còn Vua Vũ Vương là Thiên Tử nhà đại Chu
cai trị gồm cả 111 nước.
Đức Hùng Thông làm Chúa nước Sở chuyền
ngôi cho con cháu được 25 đời . Từ Đức Hùng Thông đến Đức Hùng Cư là 15 đời.
Đức Hùng Cư sinh được con cả là Thế Tử Kiến con vợ cả, khi vợ cả chết, yêu vợ
lẽ lập con vợ lẽ làm Thế Tử để nối ngôi, đuổi Thế Tử Kiến đi nơi khác. Quan cựu
thần nước Sở là ông Ngũ Sa cùng 2 con ông là Ngũ Thượng, Ngũ Tử Tư thấy Chúa ở
không công bằng nên theo đi giúp Thế Tử Kiến. Đức Hùng Cư âm mưu gọi ông Ngũ sa
và Ngũ Thượng về triều giết đi; Ngũ Tử Tư thấy cha và anh bị giết vội đem Thế
Tử Kiến trốn sang nước Trịnh là họ Ngoại Thế Tử Kiến; Vì vậy Thế Tử Kiến được
nơi nương dựa.
Thế Tử Kiến sinh được 2 con là Ông Thắng
và Ông Thiện. Ông Thắng mặt trắng như phấn, bấy giờ Chúa nước Ngô là Phù Sai
đương hùng cường, kén rể cho con gái gieo quả cầu; Ông Thắng bắt được quả cầu
nên được làm rể nước Ngô, sau Ông Thắng mượn quân nước Ngô, nước Trịnh giúp đem
về đánh nước Sở, đánh đuổi quan Thái Thú
là Ngụy Tử Tây, cướp lấy Uyển Thành sau tranh điển sinh thêu cờ hiệu là Bạch
Công Thắng, chỗ đóng quân là Bạch Công Thành. Phong cho em là Ông Thiện làm đại
tướng.
Sau ÔngThắng bị Sở Huệ Vương trá giảng
hòa vời về triều âm mưu sai Ngụy Công
Mạnh lén vào cướp thành; Sai người trong họ là công tử Thân phục quân đao phủ
lừa giết. Khi Ông Thắng cùng gia quyến bị giết rồi, 2 con Ông Thiện chạy trốn.
Con thứ 2 Ông Thiện là Ông Quý Canh trốn sang nước Tống, được làm chức Triều
Tán Đại Phu, con cháu nối làm quan khanh nước Tống.
Con cả Ông Thiện là Ông Khổng Nhâm trốn
sang nước Đường. Con cháu làm quan ở nước Đường. Từ đấy đổi tên họ là họ Bạch:
Văn hay như Ông Bạch Cư Dy, Ông Tràng Thiên, Ông Văn Thiên Tường thất bộ thành
thi, nổi tiếng là những bậc hay chữ ở nước Đường.
Võ mạnh như Ông Bạch Khởi giúp Tần Tương
Vương và Tần Thủy Hoàng đánh dẹp các nước chư hầu thời chiến quốc thu gồm vào
một nước Doanh Tần. Tần Thủy Hoàng phong vương tước cho ông Bạch Khởi, lấy đất
phủ Thái Nguyên Trung Hoa một nghìn mẫu ruộng cấp cho Ông Bạch Khởi, cho cả họ
và đầy tớ cầy cấy lộc điền mà ăn.
Đến đời Vua Cao tổ nhà Hán là Lưu Quỳ
đánh đuổi Tần Tử Anh là con Tần Thủy Hoàng tịch thu số ruộng lộc điền của Ông
Bạch Khởi, lại kể tội ác Ông Bạch Khởi trong thời gian giúp nhà Tần. Con cháu
và họ sợ vạ lây phải chạy trốn. Có một phái trốn sang Việt nam từ đời Thục An
Dương Vương ở với dân Mường tỉnh Bắc Giang bấy giờ.
Mãi đến đời Vua Tiền Lý Nam Đế dòng dõi
họ Bạch dời ra ở thôn Nguyên Xá (tức Vôi Giếng). Một Ông làm chức Phủ Hiệu, sau
đó con là ông Phấn ưng ra giúp Vua hậu Lý Nam Đế, đánh đuổi được giặc, đánh
đông dẹp bắc đều đại thắng được phong
chức Đại tướng sau đi xứ nhà Hán nước Trung Hoa tặng 6 chữ: “Bạch gia Thiên Lý
Câu Hỹ”. (nghĩa là: dòng dõi họ Bạch như ngựa Câu chạy giỏi ngàn dặm; lại phong
thêm cho Ông Phấn ưng là Cẩm Khê hầu. Đến Triều Lý Công Uẩn, nhà Lý phát đạt
nhiều. Từ đấy họ Bạch nổi danh tiếng ở nước Việt Nam.
Sau có 5 phái dời về các nơi (Bắc Bộ)
1.Một phái ở với người Mường xã Ba Trại
huyện Bất Bạt tỉnh Sơn Tây.
2.Một phái về huyện Thanh Trì tỉnh Hà
Đông
3.Một phái ở phủ Nho Quan Ninh Bình.
4.Một phái dời về ở thôn Lau, thôn Cói xã
An Đổ huyện Bình Lục tỉnh Hà Nam
5.Một phái hai anh em Cụ: Bạch Quốc Hiên,
Cụ Bạch Quốc Viên cùng đỗ tiến sĩ ở triều Trần.
Em là Cụ Bạch Quốc Viên lấy vợ ở thôn
Bạch Thượng tổng Bạch Sam định cư ở đấy. Sau dòng dõi dời về thôn Thần Nữ (thôn
Đồng Văn) cùng huyện Duy Tiên tỉnh Hà Nam.
Anh là Cụ bạch Quốc Hiên lấy vợ ở thôn
Phù Sơn tổng Phù Lưu huyện Kim Bảng định cư ở thôn Phù Sơn.
Đến triều Lê ở Phù Sơn bị ông Cống Cử họ
Kiều lập trại ở, làm đoạn thương Long mạch mả tổ họ Bạch. Trong họ cửa nhà sa
sút, người bị chết non nhiều. Cụ Thủy tổ ta là Bạch Đình Luận lấy làm căm giận,
đến thôn Lạc Tràng mở trường dạy học. Cụ lấy cụ bà người họ Phạm Quỳ ở thôn Lạc
Tràng. Thời triều Lê cụ đỗ cống cử trước đỗ cử nhân, sau vào thi hội không đỗ
mới gọi là cống cử. Cụ Bạch Đình Luận đến khởi tổ họ Bạch ở thôn Lạc Tràng, tức
là cụ Thủy tổ mở đầu khoa mục cho họ Bạch ta ở Lạc Tràng. Sau đến triều Nguyễn
thời Vua Tự Đức Cụ Bạch Xuân Quyền ở Lạc Tràng lấy cụ Bà người họ Đoàn ở thôn
Liễu Đôi huyện Thanh Liêm, con cháu xuống ở quê mẹ ; Sau dời ở thôn Lê. Đến bây
giờ đã 5,6 đời dòng dõi rất đông đều
phát đạt cả.
Nguyên họ Bạch từ thuở xưa đến nay có đất
di cư nên lấy vợ hay làm con nuôi ở đâu thời lập ngay gia cư ở đấy, thường
thường ở quê hương mẫu quán nhiều. Họ Bạch di cư khắp miền Nam, miền Bắc, miền
Trung, chứ trong nước Việt nam không có 2 họ Bạch.
Mộ tổ Bạch Quốc Hiên bia đề: Tổ Bạch Quốc
Hiên, tiến sỹ đời nhà Trần, ngày giỗ: 3/3, mộ táng ở đồng mầu thôn Cao Mỹ xã
Tượng Lĩnh. Câu đối ở mộ đề
Bên phải: Kinh thánh tâm niệm phúc
nhân lai
Bên trái: Âm đức tầm thanh thiên
địa bạch
Ngai thờ tổ có bài vị viết: Bạch tộc từ
đường thủy tổ Bạch Quốc Hiên chân linh thần vị (thờ tại nhà ông Bạch Văn Kiền,
thôn Lưu Giáo, xã Tượng Lĩnh, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam).