Đời thứ 7 chi giáp
Ngành trưởng, phái 2 kế trưởng chi Giáp
1.Cụ Bạch Xuân Tính (tự Hữu Du) là con trưởng tổ Bạch Xuân
Thành. Kế trưởng họ Bạch Lạc Tràng. Sinh thời cụ chuyên nghề văn học ,
thi trúng nhị trường sau về dạy học. Cụ lấy cụ bà người họ Trịnh thôn Đại
Hoàng, chuyên nghề buôn bán, sinh được 3 trai, 2 gái theo thứ tự:
1.Trưởng nam là cụ Bạch Xuân Khâm.
2.Trai thứ 2 là cụ Bạch Xuân Duy
3.Trai thứ 3 là cụ Bạch Xuân Trường
4.Gái lớn là cụ Bạch Thị Trẩn lấy cụ Đỗ
Cau người Nghệ An.
5.Gái thứ 2 là cụ Bạch Thị Tịch lấy cụ
Cống Tiệm họ Vũ cùng làng.
Cụ thọ 49 tuổi, mất ngày tháng năm nào
không rõ,
Cụ bà thọ 53 tuổi, mất ngày 20 tháng 4.
Mộ 2 cụ an táng tại xứ Vườn Bún thôn Lạc
Tràng.
Ngành 2, phái 2 kế trưởng chi Giáp
2. Cụ Bạch Tự Cường là con trai thứ 2 tổ Bạch Xuân Thành.
Sinh thời cụ học vấn bình thường; Thi trúng nhiêu học sau làm Phó Lý. Cụ lấy cụ
bà là người họ Phạm trong làng. Sinh được 2 gái.
1.Gái lớn lấy cụ Trịnh Thông Minh ở thôn
Đại Hoàng.
2.Gái thứ 2 lấy cụ Phạm Văn Thố Lạc
Tràng.
Cụ thọ 45 tuổi, mất ngày 29 tháng 8
Cụ bà thọ 48 tuổi, mất ngày 20 tháng 2.
Mộ 2 cụ đều táng ở xứ Quán Thánh thôn
Tháp xã Liêm Túc huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam.
Ngành 3, phái 2 kế trưởng chi Giáp
3. Cụ Bạch Xuân Quyền là con trai thứ 3 tổ Bạch Xuân Thành,
lúc còn nhỏ cụ có trí chuyên cần học tập cùng với 2 anh theo thầy đường xa
chẳng quản ngại, tài năng thi phú, cùng 2 anh thường thường thi cử nhưng không
đỗ chỉ trúng tam trường thôi. Chẳng may anh cả cụ lại mất sớm, cụ càng căm hờn.
Bạn cụ là cụ Tú Bùi và em họ cụ là cụ Phú Bồi can cụ rằng: “Học quí tự đắc, an
vấn nhân chi” (nghĩa là học để mà biết, sợ gì không ai biết đến mình là người
hay chữ, chớ lấy việc thi hỏng mà sờn lòng, học tài thi phận). Đến năm 32 tuổi
cụ mới lấy cụ bà người họ Đoàn Thuần Hậu ở thôn Sấu xã Liêm Túc huyện Thanh
Liêm. Sinh được 5 trai, 3 gái theo thứ tự.
1.Trưởng nam là cụ Bạch Xuân Thưởng.
2.Trai thứ 2 là cụ Bạch Xuân Phương
3.Trai thứ 3 là cụ Bạch Xuân Thảng (tức cụ Ba Niêm)
4.Trai thứ 4 là cụ Bạch Văn Khản
5.Trai thứ 5 là cụ Bạch Văn Hưu (chết lúc
còn nhỏ)
6.Gái lớn là cụ Bạch Thị Em,
7.Gái thứ 2 là cụ Bạch Thị ái
8. Gái thứ 3 là cụ Bạch Thị Đỏ
Năm cụ 44 tuổi anh thứ hai cụ là cụ Tự
Cường mất ngày 29 tháng 8. Cụ Thuần Hậu hiếu thảo đem con thứ hai (tức cụ
Phương) nối tự. Cụ thương anh khóc hàng tháng quên cả ăn, uống, rượu, chè, cụ
mắc bệnh nặng, mất ngày 28 tháng 9 cùng năm anh cụ mất. Đều mất ở thôn Lạc
Tràng. Đến năm sau con trai út cụ là cụ Hưu chết. Gia đình càng túng bấn buồn
bã thêm. Các con còn bé dại, một mình cụ bà kiếm không đủ cơm ăn áo mặc, may
được tổ ngoại là Thiên Hộ Đoàn Sỹ Nguyên (Ký Lĩnh) thôn Sấu xã Liễu Đôi (Liêm
Túc) huyện Thanh Liêm, nhà giàu có, thương cụ bà chồng chết đông con nghèo
túng, nên bắt cụ bà đem con về thôn Sấu, rồi tổ cho một khu ruộng đất ở thôn Lê
xã Mỹ Xá (tức Liêm trực) và làm nhà cho cụ bà ở đây làm ruộng, nuôi các con,
trai đi học, gái canh cửi, nhờ ơn cụ tổ ngoại gây dựng cho, nuôi các con được
trưởng thành, trai lấy vợ, gái gả chồng đều được tử tế.
Cụ thọ 44 tuổi mất ngày 28 tháng 9. Mộ
táng ở Lạc Tràng, sau con cháu đưa về xứ núi thôn Lê xã Liêm Trực tức xã Liêm
Sơn ngày nay (ở gần chùa Lầy)
Cụ bà thọ 92 tuổi mộ táng ở xứ Mả Bắc xã
Liêm Trực. Giỗ ngày 30 tháng 2
Đến nay cụ Bạch Xuân Quyền là cụ khởi tổ
họ Bạch ở thôn Lê xã Liêm Trực huyện Thanh Liêm từ đời dòng dõi các chúa Nguyễn
(Nguyễn Phúc Thuần năm 1765-1777).
Khánh thành từ đường thờ tổ Bạch Xuân
Quyền tại thôn Lê xã Liêm Sơn huyện Thanh Liêm ngày 17 tháng 4 năm Bính Tuất
(tức chủ nhật ngày 14 tháng 5 năm 2006).
Ngành trưởng, phái 3 chi Giáp
4. Cụ Bạch Quốc Bồi là con trưởng cụ Bạch Quốc Cơ. Sinh thời
cụ học tập thông minh; Thi đỗ tú tài thời nhà Nguyễn; rồi sau dần dần làm nên
chức tri phủ. Cụ lấy 2 vợ. Cụ vợ cả người họ Trịnh thôn Đại Hoàng. Cụ vợ hai
người họ Nguyễn thôn Đồng Văn xã Tiên Lý huyện Duy Tiên. Sinh được 3 trai.
1.Trưởng
nam là cụ Bạch Văn Thông.
2.Trai thứ 2 là cụ Bạch Văn Minh.
3.Trai thứ 3 là cụ Bạch Văn Thế
Cụ thọ được 63 tuổi.
Cụ vợ cả thọ được 41 tuổi.
Cụ vợ 2 thọ được 71 tuổi.
Ba cụ chết ngày, tháng nào đều không rõ.
Mộ 3 cụ hợp táng ở xứ Vườn Bún thôn Lạc
Tràng.
Ngành 2 , phái 3 chi Giáp
5. Cụ Bạch Quốc Triệu là con trai thứ 2 cụ Bạch Quốc Cơ. Sinh
thời cụ học tập thi trúng nhị trường, sau cụ ra làm chánh tổng được sắc Bách
Bộ. Cụ lấy cụ bà người họ Đinh (Đinh Thị Ba) ở làng. Cụ sinh được 3 trai, 2
gái.
1.Trưởng nam là cụ Bạch Bá Khải.
2.Trai thứ 2 là cụ Bạch Văn Chưng.
3.Trai thứ 3 là cụ Bạch Xuân Mộc (tức cụ Ba Móc)
4.Gái lớn là cụ Bạch Thị Đỏ lấy cụ chánh
tổng người thôn Đục Khê tỉnh Hà Đông.
5.Gái thứ 2 là cụ Bạch Thị Dỏ lấy cụ Bát
Kỳ người họ Phạm ở làng.
Cụ thọ được 67 tuổi; mất ngày tháng nào
không rõ. Mộ táng ở sau đình Đại Hoàng thôn Đại Hoàng.
Cụ Bà thọ 79 tuổi. Mất ngày tháng nào
không rõ. Mộ táng ở xứ vườn Quýt thôn Đại Hoàng.
Ngành 3, phái 3 chi Giáp
6. Cụ Bạch Trọng Đạo là con trai thứ 3 cụ Bạch Quốc Cơ. Sinh
thời cụ học trúng nhiêu học, sau cụ phải ra lính khố đỏ thăng ngũ trưởng. Cụ
lấy cụ bà người họ Hoàng thôn Hoà Lạc. Sinh được 3 trai, 1 gái.
1.Trưởng nam là cụ Bạch Văn Giảng.
2.Trai thứ 2 là cụ Bạch Văn Tĩnh.
3.Trai thứ 2 là cụ Bạch Văn Dũng.
4.Gái là cụ Bạch Thị Kỷ Lấy cụ Cao Văn
Sách ở làng.
Cụ ông thọ 53 tuổi. Cụ bà thọ 57 tuổi.
Mất ngày tháng nào không rõ. Mộ 2 cụ đều táng ở Đại Vĩnh thôn Lạc Tràng. (Mộ cụ
ông để sát tường rào nhà ông Đỗ Văn Thủy, có bia đá bằng chữ nho do hiếu tôn
Bạch Xuân Đào con trưởng cụ Cột dựng từ
năm 1919 đời Vua Khải Định)
Ngành 4, phái 3 chi Giáp
7. Cụ Bạch Chính Đức (1838) sinh tại Lạc Tràng là con trai
thứ 4 cụ Bạch Quốc Cơ. Sinh thời cụ học vấn thông minh trúng nhất trường thời
Pháp thuộc, cụ phải đi lính khố đỏ thăng chức chánh quản cụ tại ngũ vẫn liên hệ
với cụ Lãnh tức cụ Đinh Công Tráng. Sau cụ bỏ ngũ làm tướng cụ Đinh Công Tráng
tham gia cuộc khởi nghĩa Ba Đình ở tỉnh Thanh Hóa (trong phong trào Cần Vương)
chống nhau với quân Pháp; Cụ đã chiến đấu anh dũng và hy sinh cùng với cụ Đinh
Công Tráng trong đêm 20 tháng 1 năm 1887. Cụ lấy cụ bà người họ Đinh ở làng
sinh được 1 trai
1. Trưởng nam là cụ Bạch Văn Cột.
Cụ thọ 49 tuổi hy sinh tại Thanh Hóa đêm
20 tháng 1 năm 1887
Cụ bà thọ 63 tuổi. Mất ngày tháng nào
không rõ.
Mộ 2 cụ đều táng ở xứ Vườn Bún thôn Lạc
Tràng.
Ngành trưởng, phái 4 chi Giáp
8. Cụ Bạch Đông Ôn (1811 tự là Hòa Phủ ) sinh tại Lạc
Tràng là con trưởng cụ Bạch Quốc Bính.
Sinh thời cụ học vấn thông minh tư chất liêm chính. Thi đỗ Hoàng giáp (tiến sỹ)
làm chức thị độc thời Minh Mạng; sau thăng chức Thái phó dạy vua Tự Đức; rồi
làm quan ngự sử, có lần đi thanh tra các tỉnh Miền Bắc, để tra xét tham ô quan
lại, rất công bình, có công thời thưởng, có tội thời phạt, chứ không ăn lễ của
ai một đồng. Nên em họ cụ là cụ Giáo Tộ (tức cụ Bạch Văn Tộ trưởng ngành 4 phái
2 chi ất) đi làm học trò để biên chép, chỉ ăn lương thôi, không được đồng ngoại
nào, đi theo anh họ trong 2 tháng về được ít giấy viết dở và 5 cái bút cũng
viết dở cả. Thời Tự Đức thấy Vua Tự Đức ký hoà ước với Pháp để người Pháp bảo
hộ nước Việt Nam, cụ can ngăn mãi không được vì thế cụ xin về hưu trí ra ở phố
Hàng Đào Hà Nội tĩnh dưỡng, ngày đêm chỉ
uống rượu ngâm thơ làm vui thú. Cụ lấy cụ bà người họ Bùi (con gái cụ
hình bộ Thượng thư) tỉnh Hà Tĩnh. Sinh được 1 trai, 1 gái
1.Trưởng nam là là cụ Bạch Đôn
2.Gái là cụ Bạch Thị Hoà lấy cụ Tú Đào
người Thanh Quang Tỉnh Hà Nội.
Cụ làm quan rất thanh Liêm, nhà nghèo cụ
uống rượu chỉ nhấm ngô rang, cơm ăn chỉ có rau dưa, tương cà thôi. Bạn và học
trò của cụ thấy cụ nghèo túng đem tiền bạc đến biếu cụ nhất định không nhận, ai
biếu rượu thời cụ lấy, sau có người bạn lén bỏ bạc vào hũ rượu, cụ đem trả cả
bạc và hũ.
Cụ thọ 71 tuổi, mất ngày 14 tháng 3 (năm
1881), khi cụ mất vua Tự Đức có viếng 4 chữ: “Thanh bạch vi thủ” và trao tặng
sắc Duyên Thọ Quận Công, mộ an táng tại nghĩa trang Hà Nội
Cụ bà thọ 70 tuổi, mất ngày tháng nào không rõ, mộ cụ bà cũng an táng tại nghĩa
trang Hà Nội.
Cụ Hoàng Giáp Bạch Đông Ôn có công với
nước với dòng họ (cụ viết bản thiên tiểu sử gia phả họ Bạch gửi tới các phái họ
Bạch. Cụ được họ Bạch Lạc Tràng tôn vinh trong danh bia đá tại nhà thờ họ Bạch
Lạc Tràng năm 2000.
Ngành 2, phái 4 chi Giáp
9. Cụ Bạch Đoàn Cung sinh ra ở Lạc Tràng là con thứ 2 cụ Bạch
Quốc Bính. Sinh thời cụ học vấn trúng nhất trường sau trở về làm lý trưởng. Cụ
lấy cụ bà người họ Đinh huý Sáu trong làng. Sinh được 2 trai, 1 gái.
1.Trưởng nam là cụ Bạch Khắc Phổ.
2.Trai thứ 2 là cụ Bạch Khắc Nhượng.
3.Gái là cụ Bạch Thị Huệ, lấy cụ Nguyễn
Văn May (ông cả May) quê ở thôn Phương Lâm xã Đồng Hóa huyện Kim Bảng, sinh ra
Nguyễn Thị Thân, Nguyễn Thị Nở và Nguyễn Văn Tương.
Cụ thọ 61 tuổi mất ngày 2 tháng 9. Mộ
táng ở xứ Vườn Bún (sau Đình Giáp Ngô thôn Lạc Tràng).
Cụ bà thọ 64 tuổi, mất ngày 12 thán 7. Mộ
táng ở xứ Vườn Bún thôn Lạc Tràng.
Ngành 3, phái 4 chi Giáp
10. Cụ Bạch Xuân Hảo sinh ở Lạc Tràng là con trai thứ 3 cụ
Bạch Quốc Bính. Sinh thời cụ học vấn thông minh thi trúng nhất trường. Thôi học
làm lý trưởng; sau làm chánh tổng 9 năm được sắc cửu phẩm bách bộ ở thời Pháp
thuộc. Cụ lấy cụ bà người họ Nguyễn thôn Yên Lệnh huyện Duy Tiên sinh được 3
trai, 3 gái.
1.Trưởng nam là cụ Bạch Ngọc Khuê (tức
Khả)
2.Trai thứ 2 là cụ Bạch Ngọc Kha.
3.Trai thứ 3 là cụ Bạch Ngọc Cẩn
4.Gái lớn là cụ Bạch Thị oanh lấy cụ Vũ
Văn Tuân ở làng
5.Gái thứ 2 Bạch Thị Hanh lấy cụ Huyện Mỹ
người tỉnh Nghệ An.
6.Gái thứ 3 là cụ Đàm Phương tu ở chùa
Lạc Tràng.
Cụ thọ 63 tuổi.
Cụ bà thọ 65 tuổi.
Cụ ông và cụ bà mất ngày tháng nào không
rõ.
Mộ 2 cụ đều táng ở xứ Vườn Bún thôn Lạc
Tràng.